Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 9
 Lượt truy cập: 24837781

 
Góc thư giãn 18.04.2024 17:34
VN khai phá Trung Hoa
29.08.2014 19:58

....Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! 

Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên.....

THỦY TỔ NGƯỜI VIỆT THỰC SỰ Ở ĐÂU?

Hà Văn Thùy


Từ lâu, tôi tâm niệm sẽ làm một khảo cứu nghiêm túc xác định nơi sinh thành của thủy tổ người Việt nhưng vì chưa đủ duyên nên chưa thành. Nay xin được trả món nợ.

Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không cho phép có cái nhìn xa hơn!

Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu tiên xuất hiện trên đất Việt là ai?

 

  1. Khởi đầu từ lịch sử

Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.

Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ – mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó (Việt bộ Qua -戈). 20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa (Việt bộ Mễ -粤)! Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam.

Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, dân cư trên Hoa lục phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên, nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” có lẽ là mô tả thời kỳ này. Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4400 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN… Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh? Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và Miến Điện.

Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng và đưa Hoàng Đế lên ngang hàng Viêm Đế! Thuyết này càng không đúng, vì Hoàng Đế xuất hiện năm 2698 TCN, sau Thần Nông Viêm Đế hơn 300 năm nên không thể có chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Viêm Đế. Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt đã có trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.

Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.

Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:

Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực…” Như vậy, Lạc Long Quân không phải người bản địa mà là người từ nơi khác di cư tới. Lạc Long Quân là người từ xa tới thì cố nhiên, Kinh Dương Vương, Thần Nông rồi Phục Hy cũng không thể được sinh ra trên đất Việt!

Một câu hỏi: họ xuất xứ từ đâu? Như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ đây xuống. Di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” giúp ta nhận biết, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.

Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta.

Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Như vậy, người Hoa Hạ là con cháu của Hoàng Đế và cũng là con cháu của Viêm Đế.

Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Sông Đen thành Đan Giang. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?!

 

  1. Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.
  2. Quá trình hình thành

Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh… Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu caCông cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không?

Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”…

 

  1. Đôi lời nhận định

Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” – cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời!

Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy? Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi ngộ ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên… Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!

Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau!

Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:

Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!

Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..” Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn Đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…

  1. Kết luận

Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ, phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn năm ta tin như thế!

Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội nguồn, một lịch sử độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy được nuôi bởi bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”!

Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên.

Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc.

Theo thiển ý, nếu như có ngôi mộ nào sớm nhất của tổ tiên Mongoloid trên đất Việt thì chỉ có thể là mộ Lạc Long Quân ở Rào Rum-Ngàn Hống hay tại kinh đô Ao Việt!

Đáng buồn và đáng sợ là, những người “quy tập” tổ tiên về đất Phong Châu không ngờ rằng mình đang làm cái việc nguy hại tham bát bỏ mâm. Trong khi hất đi cái mâm thật, không chỉ đầy của cải quý giá mà còn có cả văn tự ghi quyền sở hữu giang sơn vĩ đại của tổ tiên xưa thì quý vị ôm lấy cái bát ảo! Cái mâm quẳng đi rồi, một khi cái bát được chứng minh là giả, không hiểu quý vị tính sao?!

 



...Căm hờn và tủi nhục khôn nguôi cho đến ngày tận thế !
 
 
 
Trung Cộng Tiến Quân Vào Vùng Nhiệt Đới
T thuở hồng hoang, con người thể hiện cuộc sống bằng những bước đi: đi kiếm thức ăn, đi tìm nơi cư trú, đi tìm kiếm những giá trị tinh thần. Qua thời gian, những yếu tố tương đồng (ngôn ngữ, huyết thống, nhu cầu...) làm họ gần gủi nhau hơn, tạo nên một quần thể có đủ sức mạnh để đối phó hữu hiệu với nghịch cảnh, bảo toàn và phát triển sự sống. Từ đó, những bộ lạc, dân tộc, quốc gia được hình thành và cũng chuyển động để tìm thế sinh tồn.
 
Mỗi ngày qua, mỗi người chúng ta đều nhận được vô số tin tức liên hệ đến Việt Nam với lo âu, suy nghĩ. Những sự kiện đã và đang diễn tiến được nhiều người xem như một chuyện dĩ nhiên phải đến, tiên liệu từ lâu :
 
Trong tác phẩm “Trung Quốc Tiến Quân Vào Vùng Nhiệt Đới” (China's March Toward the Tropics ) xuất bản năm 1954, giáo sư Herold J. Wiens (1912 - 1971) cuả Đại Học Yale mở đầu Chương I như sau :
 
Phần lớn chính thổ Trung Hoa hiện nay chia theo thủy lưu cuả ba hệ thống sông ngòi chủ yếu, đó là: Hoàng Hà phiá bắc, Dương Tử Giang phần giữa và Tây Giang phương nam. Người Hoa Hán phát triển văn hoá trong khu vực Hoàng Hà, mở rộng vào vùng Dương Tử và rồi đến Tây Giang. Họ chinh phục và xua đuổi, hoặc tiêu diệt, hoặc đồng hoá những bộ lạc đang cư ngụ trên những bình nguyên cuả Dương Tử và Tây Giang. (Nguyên văn: Most of present-day China Proper divides up into the drainages of three major systems, the Huang Ho or Yellow River in the north, the Yang-tzu Chiang in the central portion, and the Hsi Chiang or West River in the south. The Han-Chinese, developing their culture in the Huang Ho region, expanded first into the Yang-Tzu and then into the Hsi Chiang region, conquering, and driving out, or exterminating, or absorbing the tribes peoples occupying the Yang-tzu and Hsi River valleys.).
XiaolangdiVw_2.jpg HeThong_SongChauGiang.jpg
Phần trích dẫn trên gợi thêm một minh chứng trong cuộc tranh đấu liên tục giữa Hoa Hán và Việt tộc trải qua nhiều ngàn năm trước Công Nguyên từ khi loài người quần tụ sinh sống trên bình nguyên Hoàng Hà - Dương Tử tiếp đến thời Hoàng Đế, Xuân Thu, Chiến Quốc... Lịch sử cũng ghi chép Tần Thủy Hoàng đưa quân tràn ngập lãnh thổ Bách Việt (214 BC) gồm các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông và một phần Bắc Việt ngày nay. Để sống còn, các bộ tộc Bách Việt lần lượt di chuyển theo dòng chảy của các sông lớn Hồng Hà, Cửu Long, Salween, Irrawaldy và vươn ra các hải đảo Thái Bình Dương, lập nên những quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Những thành phần bám trụ trên mảnh đất tổ tiên, trở thành các sắc dân thiểu số sinh sống trong những khu hẻo lánh, cằn cỗi, từ các tỉnh nội điạ Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Tây đến các tỉnh ven biển Phúc Kiến, Quảng Đông, kể cả các đảo Hải Nam, Đài Loan.
 
Bộ tộc Lạc Việt và một số Việt tộc khác, trên đường lui về phương nam, thành lập nước Việt Nam, một thời mang quốc hiệu Đại Việt, trên châu thổ Hồng Hà / Cửu Long với Trường Sơn / Đông Hải. Việt Nam tại điạ bàn hoa gấm nầy là một cứ điểm trọng yếu, ngăn chận tham vọng cố hữu mở rộng đế quốc cuả Hán Tộc.
 
I- Thanh Toán Việt Nam.
 
Trải qua những giai đoạn lịch sử, Hoa Hán đã đánh Đại Việt những đòn chí tử :
 
1/ Dưới thời Đông Hán (năm 41), Mã Viện xâm chiếm Giao Chỉ, phá nát văn hoá Hoà Bình, Đông Sơn, tịch thu trống đồng, binh khí và dụng cụ đồng thau, nấu chảy thành những khối kim loại mang về phương Bắc. Chúng cũng tạo một huyền thoại "trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt", cảnh báo giống nòi Giao Chỉ sẽ bị tận diệt !
 
Tiếp theo, dưới thời nhà Đường năm 841, tiết độ sứ Giao Châu Cao Biền gieo rắc mê tín dị đoan, buà chú và phong thủy vào xã hội Việt Nam nhằm mục đích hủy hoại tâm thức quật khởi cuả toàn khối dân tộc. Với chiêu bài trấn yểm long mạch, Cao Biền đào bới các kho tàng, tìm kiếm vàng bạc, châu báu, phá hủy các quang cảnh cuả văn minh Việt tộc. Phản kháng chính sách ma qủi nầy, cư dân châu thổ sông Hồng đặt ra một thành ngữ "quân Cao Biền dậy non" để diễu cợt tà thuật bệnh hoạn cuả phù thủy Cao Biền!
 
Kế hoạch khốc liệt nhất nhằm xoá sổ dân tộc Đại Việt lại một lần nưã xảy ra trong thời kỳ nước ta bị nhà Minh cai trị (1414). Theo Việt Nam Sử Lược cuả Trần Trọng Kim : "Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hoá với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn cái gì là di tích cuả nước mình như là sách vở, thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch."
 
Sử gia Trần Trọng Kim cũng liệt kê trên trăm quyển sách qúi, cốt lõi cuả văn minh dân tộc, bị lấy sạch đem về Tàu, đáng kể nhất: Hình Thư cuả vua Thái Tông nhà Lý, Quốc Triều Thông Lễ cuả vua Thái Tông nhà Trần, Hình Luật cuả vua Thái Tông nhà Trần, Trần Triều Đại Điển cuả Trần Dụ Tông, Binh Gia Yếu Lược cuả Trần Hưng Đạo, Vạn Kiếp Bí Truyền cuả Trần Hưng Đạo, Việt Nam Thế Chí, Việt Sử Cương Mục, Đại Việt Sử Ký cuả Lê Văn Hưu, Việt Điện U Linh Tập cuả Lý Tế Xuyên ...
 
Cận đại, Tôn Dật Tiên, một nhân vật lớn cuả Trung Hoa, sinh trưởng tại Quảng Đông, được hai phe không đội trời chung Tưởng và Mao đồng tôn kính làm quốc phụ, cũng có dịp bày tỏ giấc mơ truyền kiếp cuả đế quốc Hoa Hán. Trong lần nói chuyện với Thủ Tướng Nhật Bàn Khuyễn Dưỡng Nghị, Tôn tỏ ý khinh bỉ người Việt Nam có căn tính nô lệ và hắn ta sẽ dành lại quyền đô hộ Việt Nam, thay thế vai trò người Pháp.
 
2/ Chủ Nghiã cộng sản do K. Marx và F. Engel xây dựng phần lý thuyết, rao giảng về một xã hội "không tưởng" giữa con nguời khắp nơi thế giới.
 
Cộng Sản Quốc Tế với hai đầu lĩnh giảo hoạt Stalin và Mao Trạch Đông chiếm đọat tư tưởng nầy làm mặt nạ cho chủ nghiã dân tộc Đại Nga và Đại Hán. Từ vùng khí hậu ôn đới lạnh lẽo, cả hai Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh đều nhắm vào khu vực nắng ấm, đầy dẫy tài nguyên thiên nhiên từ nông phẩm, hầm mỏ, núi rừng, biển cả... trong vùng Đông Nam Á đang bị thực dân da trắng khai thác. Những đảng viên cộng sản Việt Nam đầu tiên được khai sinh tại Liên Sô tuy nhiên Trung Cộng mới là người chăm sóc, bảo duỡng. Vì thế, tầng lớp đảng viên cộng sản do Hồ Chí Minh kết nạp và huấn luyện trở thành đám "khuyển mã" với đầy đủ quán tính trung thành và thần phục ông chủ Trung Cộng.
 
Cả cuộc đời cuả Mao Trạch Đông và đảng cộng sản Trung Hoa tiếp tục thực hiện giấc mơ cuả Tần Thuỷ Hoàng như một tín ngưỡng: thống nhất Trung Hoa trong một thể chế chuyên chính, phát triển Hán tộc, mở mang bờ cõi về phương Nam. Tạo dựng nhân vật Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam là một kế hoạch thâm độc kiểu Lã Bất Vi .
 
Trong tác phẩm “Những Lời Trăn Trối”, triết gia Trần Đức Thảo kể lại rằng Hồ Chí Minh biết mình bị Đệ Tam Quốc Tế tức Liên Sô loại trừ, đuổi khéo về Viễn Đông và Hồ biết Mao là thủ lãnh các phong trào cộng sản châu Á, bèn xin vào làm việc cho Bát Lộ Quân cùng lúc tuyên thệ gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mao quan tâm gây dựng Hồ dùng làm con bài "phé" mai phục trường kỳ trong canh bạc vét sạch túi Việt Nam làm căn cứ tranh đoạt vùng Đông Nam Á.
 
Nhờ vậy, Hồ Chí Minh từng bước loại bỏ các đối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ... để ngoi lên làm Tổng Bí thư kiêm Chủ Tịch Nước năm 1945. Do mưu kế thâm độc "tá đao sát thủ" cuả Mao/Hồ, mọi việc đều tiến hành êm xuôi, mở lối cho những "đồng chí" kia sớm đi vào điạ ngục.
 
Trần Đức Thảo xác nhận thủ đoạn cuả Mao bằng những mệnh đề ngắn gọn : "Phải nói thẳng ra là Mao đã trực tiếp bẻ lái ông Cụ"; hoặc "Trung Quốc muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm cuả Trung Quốc".
 
Già Hồ, một con giống do Trung cộng cải tạo gene, khai sinh những thế hệ đệ tử cực kỳ xuẩn động, gian ác, phản quốc, từ Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Quốc Hoàn, Tố Hữu... đến thế hệ kế tiếp như : Lê Duẫn, Nguyễn Chí Thanh, Lê đức Thọ, Mai Chí Thọ, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Văn Linh, ... và hiện tại là đám ô hợp : Mạnh, Trọng, Sang, Hùng, Dũng, Rứa, Thanh, Quang, Nghị, Vịnh ...
 
Chúng có chung đặc tính : bảo vệ lý tưởng cộng sản làm nền tảng biện minh cho sự nép mình vào Trung Cộng, cấu kết với nhau vơ vét tài nguyên quốc gia; dân tộc chỉ là giai đoạn, phưong tiện, là con tin mặc cả với Mỹ, Nhật... để kiếm tiền !
 
Theo Ban văn hoá trung ương Việt cộng thì lý tưởng cuả một đảng viên cộng sản là xây dựng "một xã hội mà con người sống không còn phân biệt ranh giới quốc gia, là một thế giới đại đồng không còn người bóc lột người, không còn phân chia giai cấp, không còn nhà nước vì nhà nước đã bị tiêu vong". Một số ít người trong hàng ngủ vô lại Việt cộng có thể cảm nhận đây là điều vô luân và phi nghiã, nhưng muốn sống, muốn kiếm ăn, muốn làm giàu, đều phải tâm niệm và xử dụng điểm tựa hư ảo nầy để đạt ưu thế trong việc dành giật, đấu đá, thanh toán lẫn nhau. Chúng nó dấu kín thực trạng nầy, tuy nhiên nhân dân cả nuớc đều biết rõ tim óc cuả chúng từ những sinh hoạt riêng tư kiếm tiền hàng triệu đô la cho gia đình, họp bàn trong các cấp bộ đảng, trong chính quyền từ điạ phương đến trung ương, phát hành các văn kiện hành chánh, đề ra luật pháp kể cả hiến pháp. Hội nghị Thành Đô, cột mốc bán nước cho Trung Cộng, phát sinh từ lời nói quyết định cuả tổng bí thư Nguyễn Văn Linh : "Dù Trung Quốc bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là nước xã hội chủ nghiã" !
 
II- Mở Đường Tiến Quân vào Đông Nam Á.
 
Sau khi đánh bại Tưởng Giới Thạch chiếm lỉnh toàn bộ nước Tàu, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, gọi tắt là Trung Quốc. Là một Tần Thủy Hoàng thời đại, Mao củng cố Trung Quốc bằng những thủ đoạn vô nhân, sắt máu. Tiếp theo, Trung cộng thi hành sách lược phát triển toàn diện bằng huấn dụ "mèo trắng, mèo đen", "thao quang, dưỡng hối" cuả Đặng Tiểu Bình.
 
Từ những thập niên qua, Trung cộng liên tiếp đạt những thành quả lớn trong lĩnh vực kinh tế và quân sự. Theo số liệu năm 2013, tổng sản lương nội điạ (GDP) cuả Trung cộng đạt mức 7 nghin tỉ USD, xếp hàng thứ hai, sau Mỹ (15 nghin tỉ USD) và trước Nhật Bản (5.8 nghìn tỉ USD). Về sức mạnh quân sự, cơ quan nghiên cứu quốc tế Global Fire Power xếp hạng Trung cộng đứng vào hàng thứ ba sau Hoa Kỳ và Nga.
 
Theo Richard Bitzinger, tác giả của nhiều bài viết về quốc phòng, chiến thuật, chiến lược, nhận định rằng "Trung cộng tin rằng họ có quyền trở nên một siêu cường." Giấc mơ nghìn đời bá chủ thiên hạ cuả Đại Hán không cần che dấu nữa, đang bùng dậy với những bước đi đầy mưu trí.
 
Đảng cộng sản Trung quốc xác định : " Để mở rộng không gian sinh tồn, việc tiến ra biển khơi khai thác tài nguyên biển liên quan đến khả năng tiếp tục phát triển và sự tồn vong cuả dân tộc Trung Hoa.". Vị trí đặc biệt "núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển" cuả Việt Nam, kể cả bán đảo Đông Dương là hành lang chiến lược bậc nhất mà Trung cộng quyết tâm chiếm đoạt làm cứ điểm, khống chế toàn bộ Đông Nam Á trong các lĩnh vực năng lượng, lương thực, vận chuyển hàng hoá, lưu thông hàng hải trên hai biển lớn Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Chúng bắt đầu từng bước xoay chuyển thế giới một cách mạnh mẽ và cứng rắn hơn bằng hai thế lực: Cường Lực (hard power) cụ thể là quân sự, và Nhu Lực (soft power) thường được các báo và đài gọi là quyền lực mềm, gồm những biện pháp kinh tế, tài chánh, văn hoá...
 
Trung cộng tràn xuống Nam Á bằng chiến pháp hai mũi tiến công : trên biển và trong đất liền, cương và nhu, diện và điểm, cây gậy và củ cà rốt.
 
1/ Hải quân Trung cộng hiện nay, ngoài hàng không mẫu hạm duy nhất Liêu Ninh thuộc loại phế thải tân trang mang tính trình diển, những loại tàu chiến khác như tiềm thủy đỉnh, tuần dương hạm, khu trục hạm, tàu đổ bộ... với vũ khí trang bị, do tài năng ăn cắp mẫu mã, đồ án cuả Mỹ, Tây âu và Nga, được đánh giá đạt mức tiêu chuẩn. Tương lai sắp đến, trên Thái Bình Dương hải quân Trung cộng sẽ tiến ra biển xanh, ngang chuổi đảo thứ hai, khoản kinh tuyến 150o Đông.
Sunda_Strait.jpg 
Đầu tháng 2 năm 2014, một lực lượng đặc nhiệm hải quân Trung cộng gồm hai tuần dương hạm và một tàu thủy bộ 20.000 tấn với hàng trăm thủy quân lục chiến đi vào Ấn Độ Dương, không bằng thủy lộ Malacca mà xuyên qua eo biển Sunda, thao dợt nhiều ngày trong khu vực giữa Indonesia và đảo Chrismas. Sau đó, chúng tuần du về phiá Nam đảo Java, chuyển lên hướng bắc vượt qua các eo biển Lombok và Makassar trở lại Thái Bình Dương. Màn trình diễn làm sửng sốt các quốc gia trong khu vực: Úc, Mỹ, Ấn Độ, Nam Dương. Một số tờ báo nhận định rằng Trung cộng đưa ra một thông điệp về sự trưởng thành cuả hải quân, hàm ý có đủ khả năng đi bất cứ nơi nào khi nào chúng muốn mà không cần quan tâm đến chính quyền khu vực.

lombokStrait.jpg EoBien_Lombok_Indonesie.jpg
Trọng vụ tìm kiếm máy bay MH 370 mất tích, hải quân Trung cộng cũng có dịp lùng sục trong Ấn Độ Dương. Ngoài ra Trung cộng cũng đang điều hành ba trạm nghiên cứu tại Nam cực với một số tàu tiếp tế và tàu phá băng.
 
Cuối tháng 6 vừa qua, do lời mời cuả Mỹ, Trung cộng gởi 2 chiến hạm trang bị hoả tiển, một tàu tiếp liệu, một tàu bệnh viện tối tân và 1.100 thủy thủ tham gia tập trận Vành Đai Thái Bình Dương với hải quân Mỹ và 22 quốc gia khác, trong khu vực quần đảo Hạ Uy Di. Cùng thời gian, Trung cộng cũng đưa một tàu do thám theo dõi cuộc diễn tập, quanh quẩn trong vùng đặc quyền kinh tế cuả Mỹ, làm dấy lên những phản kháng cuả Mỹ và các quốc gia tham dự.
 
Đặc biệt trên tuyến đưòng hải hành từ Đông Phi về đến Hồng Kông, Trung cộng đã chi tiêu hàng chục tỉ đô la thành lập 15 căn cứ mệnh danh Chuổi Hạt Trai Chiến Lược . Mỗi viên ngọc trai được đặt tại một vị trí ven biển có giá trị về mặt kinh tế và quân sự, tiện nghi bến cảng và phi trường, gồm các điạ danh : Puerto Sudan (Sudan), Lamu (Kenya), Al-Ahdab (Iraq), Gwadar Y Pasni (Pakistan), Marao (Maldives), Hambantote (Sri Lanka), Chittagong (Bangaladesh), Kyaoukpyu Y Sithwe (Miến Điện), Đảo Coco (Miến Điện), Kra (Thái Lan), Konpong Som (Cam bốt), đảo Gac Ma (Trường Sa), đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), Sanya (Hải Nam), Hồng Kông. Riêng hai đảo Gac Ma và Phú Lâm, mới vừa cuớp giật cuả Việt Nam, chúng đang xây cất một số công trình trong đó có sân bay. Trung cộng giải thích mục đích cuả chuỗi hạt trai nhằm bảo vệ an toàn sự chuyển vận hàng hoá qua lại từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ gồm dầu thô, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng...tuy nhiên hầu hết những quan sát viên thời cuộc đều đồng ý về một chiến lược chuẩn bị tràn ngập Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, cũng là cách bao vây chặt chẽ đối thủ Ấn Độ, giữ vững ảnh hưởng Bắc Kinh trong Vùng Nam Á.
 
2/ Giàn khoan HD 981 hiện nay đã rút ra khỏi vùng tranh chấp, tình trạng căng thẳng quân sự
 
trên Biển Đông với Việt Nam tạm lắng dịu, là thời cơ để con vượn Bắc Kinh thọc sâu cánh tay ma quái vào nội điạ, nội tình Việt Nam vuốt ve, sờ nắn, bấm huyệt. Nếu mũi tiến quân trên biển Đông được dàn trận bằng chiến hạm, đại bác, hoả tiển, lôi cuốn sự quan tâm và lên tiếng khắp nơi trên thế giới thì mặt trận toả rộng dọc theo dảy Trường Sơn tiếp tục chuyển động, chuyển động êm thấm bằng ngoại giao, tiền bạc, ngoại tệ, tư lợi cá nhân qua các cuộc tiếp cận "huynh đệ xã hội chủ nghiã".
 
Trước đây Hồ chí Minh được Mao mớm lời đưa ra khẩu hiệu "xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước", nay đế quốc Trung cộng thu hồi đưa trở lại xuất ý nguyên thủy "xẻ toạc Đông Dương đi cướp nước" qua sách lược "củ cà rốt" đang xuất hiện tại Việt Nam, Campuchia và Lào.
 
a) Ngày 21 tháng 6 năm 2013 tại Bắc Kinh, Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang đưa ra một bản Tuyên Bố Chung mà nội dung khác hẳn với chuẩn mực ngoại giao giữa hai quốc gia độc lập, bình đẳng; Viêt cộng hiện nguyên hình một con chốt lay quay dưới tay Trung Cộng.
 
Trước hết, chúng đặt trên bàn thờ 16 chữ vàng và 4 tốt làm kim chỉ nam! Tiếp theo, Sang thề nguyện với Bình: "nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai Đảng, thúc đẩy cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên giáo, Tuyên truyền cuả hai Đảng vận hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo cán bộ Đảng và Nhà nước" . Từ cơ sở nầy, Sang cam kết "tăng cường điều phối chiến lược" tất cả những họat động huyết mạch cuả một quốc gia, như: phát triển kinh tế, khai thác nông nghiệp, ngư nghiệp, khoáng sản, giao thông, vận tải, năng lượng...Chúng cũng nhắc đến những hợp tác đang bị nhân dân Việt Nam chỉ trích, lên án, mở đường cho sự tiến quân cuả bộ binh Trung cộng, gồm có : Hai Hành Lang Một Vành Đai, tuyến đường bộ cao tốc Lạng Sơn - Hà Nội. Sang cũng nhắm mắt bằng lòng những phát súng ân huệ vào đầu não cuả dân tộc : "thực hiện hiệp định văn hoá Việt Trung giai đoạn 2013-2015, tổ chức liên hoan thanh niên Việt-Trung, Diễn Đàn Nhân Dân Việt-Trung, tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị Việt-Trung"; kế hoạch đặc biệt nguy hiễm : "Hợp tác hơn nữa giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa bảy tỉnh cuả Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với bốn tỉnh của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam".
 
Cuối cùng, mục tiêu đưọc xác định bằng nhiệt tâm và số liệu: "quyết liệt thúc đẩy cân bằng thương mại song phương đến năm 2015 kim ngạch hai chiều đạt 60 tỉ USD".
 
Những người quan tâm đến tình hình đất nước thường theo dõi 10 dự án lớn cuả nhà thầu Trung Cộng tại Việt Nam, gồm có : Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, 552 triệu USD ; Dự án cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, 25.000 tỉ đồng ; Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, 20.000 tỉ đồng ; Bô xít Tây Nguyên, 16.800 tỉ đồng ; Nhà máy gang thép Lào Cai, 340 triệu USD ; Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I, 1,6 tỉ USD ; Nhà máy nhiệt điện Mông Dương II, 1,95 tỉ USD ; Nhà máy thủy điện Sông Bung, 5.000 tỉ đồng; Khu căn hộ cao cấp Golden Westlake, 50 triệu USD ; Nhà máy dệt may khu công nghiệp Lai Vu, 425 triệu USD.
 
Đây là những miếng mồi tuyệt hão để ngư ông Trung cộng móc lưỡi câu vào bụng những con cá đầu đàn Việt cộng, tha hồ dẫn dắt, làm xiếc, làm bẩy đưa cả đàn cá Việt Nam vào chảo dầu.
 
b) Trên bàn cờ Đông Dương, sự giao lưu kinh tế với Campuchia được Trung Cộng chiếu cố tích cực. Theo bản tin cuả Hoàn Cầu Thời Báo ngày 18/1/2014, tổng số đầu tư tích lũy cuả Trung Cộng vào Campuchia từ 1994 đến 2013 đạt mức 9.6 tỉ USD, nhằm vào các lĩnh vực may mặc, kỹ nghệ chế biến, ngân hàng và tài chánh, nông nghiệp, du lịch, năng lượng, hầm mõ, điạ ốc, giao thông và viễn thông. Kim Savuth, Chủ tịch Liên hiệp Xuất khẩu gạo cuả Campuchia, nhận định rằng sự ràng buộc mật thiết giữa hai quốc gia làm gia tăng số vốn đầu tư và giải thích thêm "theo ý kiến cuả tôi, sự đầu tư cuả Trung Quốc hiện nay tại Campuchia sẽ mạnh mẽ hơn trong tương lai vì người Hoa thích khai thác thương mại tại đây, một xứ sở có nhiều người nói tiếng Hoa và có cội nguồn từ Trung Quốc".
 
Đầu tháng 1 năm 2013, truyền thông quốc tế đưa tin hai công ty Trung cộng đã dành được hợp đồng có giá trị 11,2 tỉ USD cho các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở ở Campuchia, đây là mức đầu tư lớn chưa từng có. Tổng Gíam đốc Tập đoàn Sắt,Thép và Hầm mỏ Campuchia cho biết các hợp đồng liên quang đến việc xây dựng một nhà máy luyện thép ở miền bắc Campuchia, một cảng lớn tại khu vực đảo Koh Kong miền Nam và một tuyến đường sắt dài 400 km nối liền hai khu vực nói trên. Tuyến đường sắt tốn 9,6 tỉ USD và nhà máy sản xuất thép trị giá 1,6 tỉ USD.
 
Công tác xây dựng đường sắt giao cho tập đoàn China Railway Group. Cuối tháng 12 năm 2012, Trung cộng thông báo sẽ xây dựng một nhà máy lọc dầu trị giá 2,3 tỉ USD. Từ những năm trước, Trung cộng cũng đã đầu tư xây dựng 9 nhà máy thủy điện và 9 nhà máy nhiệt điện và sẽ hoàn tất năm 2020. Với những tiện nghi nầy, chính quyền Campuchia lạc quan cho biết ngoài mục tiêu bảo đảm nhu cầu năng lượng nội điạ còn tiến đến xuất khẩu điện.
 
Với một số trưng dẫn sơ yếu, chúng ta có thể đồng ý với những nhận định sau đây cuả Phou Sambath, một thanh niên trí thức người Campuchia : "Campuchia có vai trò lớn trong chiến lược trỗi dậy cuả Trung quốc. Trung quốc không ngừng hỗ trợ Campuchia vì muốn tận dụng vai trò nước nầy trong các tổ chức quốc tế, đặc biệt là ASEAN. Ngoài ra vị trí điạ lý cuả Campuchia hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc khi các cảng biển ở tỉnh Sihanoukville có thể dùng kiểm soát vịnh Thái Lan và eo biển Malacca. Xa hơn, các cảng trên còn có thể đóng vai trò bàn đạp tiến ra cả Thái Bình Dương lẫn Ấn Độ Dương. Thêm vào đó, các căn cứ không quân cuả Campuchia có thể trở thành điểm tiếp liệu cho máy bay Trung quốc hoạt động tại các vùng biển.".
 
c) Lào hay là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào là một trong năm quốc gia cộng sản còn sót lại hiện nay. Lào không có biển, diện tích 236.800 km2, dân số 6.800.000 người, mật độ 26,7. Lào có biên giới tiếp giáp với năm quốc gia, gồm có: Việt Nam với 2.069 km, Thái Lan về hướng tây với 1.385km, Campuchia về hướng nam 535 km, Trung cộng về hướng băc với chiều dài 505 km, Miến điện với 236 km hướng tây băc.
 
Trung cộng bắt đầu đầu tư vào Lào từ năm 1999 với 112 dự án khai thác khoáng sản, 82 dự án công nghiệp và thủ công nghiệp, 64 dự án nông lâm nghiệp, 4 dự án năng lượng điện và một số dự án xây dựng nhà hàng, khách sạn. Tỉnh Vân Nam phụ trách "Kế hoạch miền bắc Lào", phát triển các ngành công nghiệp trụ cột như điện lực, nông lâm nghiệp, du lịch, hầm mỏ, thành lập ồ ạt các đồn điền cao su qui mô lớn.
 
Năm 2010, với khoản đầu tư trị giá 2,9 tì USD, Trung cộng trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Lào, nắm trong tay khoản 10.000 km2 đất đai, tương đương với 4% diện tích cả nước Lào. Người Hoa kiểm soát phần lớn nền kinh tế Lào từ khai thác mỏ, cao su, ngay cả ngành bán lẽ và dịch vụ khách sạn. Đầu tư vảo thủy điện đuợc Trung cộng xem như trọng tâm chiến lược. Kinh tế Lào liên tiếp tăng trường hàng năm 8%.
 
Những năm gần đây, Trung cộng đẩy mạnh đầu tư bất động sản tại thủ đô Vientiane gồm chung cư, khu thương mại và du lịch rộng 365 hecta với số vốn 1,6 tỉ USD. Đặc biệt Trung công huy động 7 tỉ USD xây đường sắt dài 418 km từ Vientiane đến biên giới Trung cộng nhằm vận chuyển hàng hoá, nguyên liệu khoảng 5 triệu tấn/năm.
 
Việc phát triển giao thông tại Lào có dụng ý lớn, một cán bộ quân sự Việt cộng nhận định : "Họ mưu tính làm một con đường suốt từ Vân Nam đi dọc Lào xuống tận Tây nguyên, mà ở đoạn cuối Tây nguyên thì Campuchia và Lào cho họ thuê đất 55 năm. Đứng về mặt quân sự, đó là những con đường cơ động chiến lược và cơ động chiến dịch. Về kinh tế thì có thể khống chế được toàn bộ hành lang quan trọng cuả bán đảo Đông Dương."
 
III- Bán Đảo Đông Dương và dự án kênh đào Kra
 
Dưới thời toàn thịnh cuả các đời chuá Nguyễn, Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với lân quốc Chân Lạp và ngày càng mở rộng. Khi vua Gia Long thống nhất đất nước, việc bang giao với Campuchia và Lào tiến triển đầy đủ và rõ ràng hơn.
 
Vào cuối thế kỷ 19, nhu cầu xử dụng thủy lộ Cửu Long và Hồng Hà giao thương với khu vực Hoa Nam là một trong những nguyên nhân thúc đẩy người Pháp đánh chiếm Nam Kỳ rồi đến Bắc Kỳ. Thời Pháp thuộc, một số thanh niên nam nữ con nhà giàu và thế lực từ Bắc, Trung, Nam, Campuchia , Lào gặp nhau tại Đại học Hà nội và các trường trung học nổi tiếng tại Hà nội, Huế, Sàigòn. Từ đó, một số đông người Việt đổ xô làm công chức, hành nghề tiểu thương, thủ công, tại thủ đô và các đô thị lớn cuả hai vương quốc cùng chung số phận duới sự bảo hộ cuả người Pháp.
 
Đặc biệt, cuộc chiến Việt Nam từ 1946 đến 1975, cả ba quốc gia Đông Dương đều có sự liên hệ chặt chẽ với nhau trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, cuả hai bên lâm chiến : Việt cộng và đồng minh, quốc gia chống cộng và đồng minh.
 
Từ những sự kiện lịch sử, điạ lý, những tham vọng đế quốc thời đại đều nghĩ rằng chỉ cần nắm ưu thế kinh tế và chính trị ban đầu tại một khu vực cũng có đủ khả năng khống chế bán đảo.
 
Bằng cách "tầm thực", chúng sẽ lảm ruỗng nát xã hội đối phuơng và với một cái vẩy tay đúng lúc sẽ làm chủ toàn khu vực. Trung cộng đang dồn nổ lực khai thác chiến pháp nầy.
 
Hiện nay, người ta đang nhắc đến dự án kênh đào Kra xuyên qua lảnh thổ Thái Lan nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương tại khu vực Biển Đông Việt Nam. Kế họach nầy khai sinh từ năm 1677, đang được nhiều thế lực thảo luận, dằng co, đặc biệt Trung Cộng tỏ vẽ hăm hở, xông xáo mong tạo thế "tung hoành" trong thời đại toàn cầu hoá. Theo những thông tin chính thức, kênh đào sẽ được thi công tại eo đất hẹp nhất cuả bán đảo, chiều dài khoảng 44 km, dự tính chi phí 20 tỉ USD với 30.000 công nhân và kỹ sư làm việc trong 10 năm. Thủy lộ nầy đuợc đánh giá có nhiều ưu thế hơn so với eo biển Malacca và những eo biển khác trong quần đảo Nam Dương, vì tuyến đường giao thông được rút ngăn hơn 1.000 km, tránh nạn cướp biển.

kra.jpg
Vị trí Kra, nằm phiá trên vĩ tuyến 10o Bắc một chút, nếu kéo thẳng về hướng Đông sẽ lướt ngang qua trước mặt các bến cảng cuả Campuchia trong Vịnh Thái Lan -nơi có phần đầu tư thích đáng cuả Trung Cộng- chạm vào đảo Phú Quốc và tỉnh lỵ Rạch Giá. Đông Dương vốn dĩ là con mồi ngơ ngác cuả chó sói Trung Cộng, nay lại càng bội phần hấp dẫn !
 
oOo
 
Sự cạnh tranh sinh tồn trên toàn thế giới trong tương lai sẽ phức tạp và chiụ nhiều áp lực khác thường trước sự trổi dậy cuả Trung cộng. Những quốc gia Á châu gần gủi với Trung Cộng như Nam Hàn, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Brunei, Singapore, Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện đều có đủ ý chí, trí khôn và phương tiện chống đở hữu hiệu những mưu toan mở rộng không gian sinh tồn cuả Trung Cộng, trong khi Việt Nam, Campuchia và Lào đang bị Trung Cộng khống chế bằng ý thức hệ xã hội chủ nghiã và thủ đoạn mua chuộc tập đoàn lảnh đạo.
 
Riêng tại Việt Nam, một số đông dân chúng trong nước cộng thêm một số ít đảng viên cộng sản "tỉnh ngộ" được đồng bào hải ngoại và một số chính khách Âu Mỹ yểm trợ, đã phát khởi những phản đối chính sách nô lệ Trung cộng, nhưng đảng cộng sản và chính quyền Việt cộng vẫn giữ cốt cách "mặt người óc thú", không từ bỏ con đường đưa dân tộc đến hố diệt vong.
 
Rồi ra lịch sử thế giới sẽ có đoạn viết, đại ý : Cuối thế kỷ 20 những dân tộc trong khu vực Đông Âu trước đây bị sát nhập vào Liên Bang Sô Viết đã hồi sinh, trở về với cội nguồn và danh dự, trong khi đó vào những năm cuối thế kỷ 21, bán đảo Đông Dương được sáp nhập vào Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và bờ biển cuả siêu cường nầy trải dài từ bán đảo Triều Tiên đến Vịnh Thái Lan trong biển Nam Trung Quốc.
 
Căm hờn và tủi nhục khôn nguôi cho đến ngày tận thế !
 
Thế Việt (8/14)

Ông bạn  Trung quốc  rất thân - thân đến độ gọi là " môi hở răng lạnh " " bốn tốt , mười sáu chữ
 vàng " -  thân như anh  em ruột thịt  ,qua những danh từ trên, VẬY  MÀ  , tàn sát người em  dã man  đến như vậy !
  Chưa hết ,  bây giờ  , việc dã man như vậy ,chẳng cần dấu diếm  , còn dám  mang Video  này ra  để dọa  đàn em  :  Tao sẽ tiếp tục  như thế nữa nếu  tụi bay  dám chống tao !
       Điều đáng nói là : 
  Chính quyền Việt Nam  ( hiện tại )  biết rõ điều  dã man,
  lật lọng  của  ông anh miền Bắc , nhưng vì  muốn  giữ vững  địa vị  béo bở  hiện tại , nên  VẪN  PHẢI  NGẬM 
 MIỆNG  . Hơn thế nữa , vẫn tăm tắp nghe   theo lệnh
  miền Bắc ( Tầu)  , mặc dù  tính mạng, của cải của Ngư
  dân , đất biển bị xâm phạm ! )
On Thursday, August 14, 2014 9:53 PM, "Tran Ho TranHo1@yahoo.com [Daploisongnui]" wrote:








 

Nguyên tác tiếng Anh : The Massacre "Not Heard Around The World" . Tác giả James E. Zumwalt là trung tá hải quân, cháu nội đô đốc Zumwalt. Điều phải nói thêm : người đã ra lệnh bộ đội Việt Nam không được nổ súng ở Gạc Ma chính là Lê Đức Anh, lúc đó là Bộ trưởng Quốc phòng. 

Vụ thảm sát ‘thế giới chưa từng biết đến’

Posted by adminbasam on 14/08/2014
Bài viết của ông James Zumwalt, Trung tá Thủy quân Lục chiến Mỹ, nói về đoạn video Trung Quốc đã ra tay tàn sát những người lính Hải quân Việt Nam ngày 14-03-1988 ở đảo Gạc Ma.
Tác giả: James Zumwalt
Người dịch: Nguyễn Văn Phước
14-08-2014
Đây là một trong những tội ác trắng trợn nhất thời hiện đại.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi thủ phạm đã không nói gì về nó, nhưng đáng ngạc nhiên là cả nạn nhân cũng im lặng. Người ta đã chọn cách làm như vậy, có lẽ là để sau này thiếu bằng chứng cho thế giới thấy, nó đã xảy ra.
Tháng 6 năm 2012, một đoạn video về vụ thảm sát đã được công bố. Thông thường, quốc gia phạm phải hành động tàn bạo như vậy sẽ giữ im lặng về nó. Tuy nhiên, video này đã được chính thủ phạm công bố, điều này làm dấy lên câu hỏi: “Tại sao?”
Vụ việc xảy ra vào tháng 3 năm 1988, giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Nó xảy ra ở vùng biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông – ND), nơi có tranh chấp giữa hai quốc gia về chủ quyền quần đảo Trường Sa, tranh chấp sau đó tiếp tục và hiện vẫn còn tồn tại.
Như kết quả sự im lặng của Việt Nam thời điểm đó, người dân Việt Nam không có cách nào để biết về vụ việc đã xảy ra cho đến khi Trung Quốc công bố đoạn video – sự giận dữ đã nổi lên vì vụ thảm sát và vì sự im lặng của chính phủ.
Quần đảo Trường Sa là một quần đảo gồm khoảng 750 đảo, đảo nhỏ, rạn san hô và đảo san hô.
Vụ việc liên quan đến ba rạn/đảo san hô rất gần nhau. Mỗi đảo san hô thấp đến mức nước biển đôi khi nhấn chìm một phần củachúng.
Dự đoán là phía Trung Quốc sẽ cố gắng chiếm các rạn san hô, hai tàu vận tải của Việt Nam, HQ-604 và HQ-605, chở 73 binh sĩ, đã được lệnh cho công binh đổ bộ để khởi công xây công sự.
Các quân nhân Việt Nam đã đổ bộ lên rạn san hô Gạc Ma, bản đồ phương Tây gọi là Johnson South Reef, vào tối ngày 13 tháng 3 năm 1988.
Hai tàu vận tải của Việt Nam được mô tả chỉ là có thể chống lại những đe dọa quân sự nhỏ. Chúng là những tàu thương mại được vũ trang để vận chuyển binh lính và vật liệu xây dựng, và như vậy, chúng là những tàu quân sự được trang bị rất nhẹ. Những tàu này phải tiếp cận mục tiêu trong phạm vi 500 m thì những khẩu súng của nó mới có hiệu lực.
Vụ việc đã diễn ra ở Gạc Ma.
Với lực lượng Việt Nam đã để lại đó, hai tàu vận tải đi về phía hai đảo san hô khác.
Sáng 14 tháng 3 năm 1988, tàu chiến Trung Quốc tiếp cận các rạn san hô. Họ không chỉ có lực lượng đổ bộ trên các tàu vận tải, họ còn có tàu khu trục đi kèm với hỏa lực mạnh để hỗ trợ lực lượng đổ bộ.
Rõ ràng, nếu cuộc đối đầu giữa các lực lượng hải quân Trung Quốc và Việt Nam xảy ra, lợi thế sẽ thuộc về phía Trung Quốc vì tầm bắn lớn hơn nhiều của các khẩu pháo.
Cờ Việt Nam đã được dựng lên trên đảo san hô Gạc Ma, và cùng lúc đó, trên một đảo san hô khác, Cô Lin.
Tại Gạc Ma, những người lính công binh, đội quân được trang bị nhẹ – có thể so sánh với một Seabee – một đơn vị thuộc Tiểu đoàn Xây dựng của Hải quân Hoa Kỳ – nằm dưới sự chỉ huy của phó chỉ huy trưởng, trung úy Trần Văn Phương. Mặc cho sự hiện diện của đội tàu Trung Quốc rình rập gần đó, những người lính Việt Nam vẫn tập trung vào các công trình xây dựng của mình.
Khoảng 6 giờ sáng, một số xuồng tấn công chở thủy quân lục chiến có vũ khí, đã xuất phát từ vận tải Trung Quốc và hướng đến Gạc Ma.
Phía Việt Nam ngay lập tức hình thành một vành đai phòng thủ 360 độ với cờ của họ ở trung tâm – họ tạo nên hình thể một”vòng tròn bất tử” – biểu thị quyết tâm bảo vệ rạn san hô bằng mọi giá.
Với số ít binh lính trên đảo san hô, những người lính công binhViệt Nam đã được lệnh cản trở để giữ vững đường vành đai. Các tàu tấn công đã đổ bộ, và trong trận chiến chủ yếu là cận chiến do phạm vi hạn hẹp, người Trung Quốc đã thất bại khi cố gắng xâm nhập vào vành đai.
Khi Trung úy Phương chụp lấy lá cờ Việt Nam, giành giật nó với kẻ thù, ông đã bị bắn vào đầu. Ngay lập tức lá cờ được giương lên bởi Nguyễn Văn Lanh – người ghì giữ nó cho đến khi ông liên tiếp bị đâm và bắn. Thật kỳ diệu, Lanh sống sót, và khi phía Trung Quốc rút lui, Lanh đã chứng kiến ông và những người sống sót khác phải chịu một cuộc oanh tạc dữ dội và hủy diệt bằng súng máy từ tàu Trung Quốc.
Cùng lúc đó, một cuộc oanh tạc khác nhắm vào tàu vận tải HQ-604 của Việt Nam – con tàu như dự kiến, đã cho thấy nó không có khả năng tấn công đáp trả tàu Trung Quốc nằm ngoài tầm bắn của mình. Bị nước xâm nhập, HQ-604 được khôn khéo làm mắc cạn trên Gạc Ma nhưng phát bắn trực tiếp vào phòng động cơ khiến nó nhanh chóng chìm xuống khi nhiều người vẫn còn trên tàu.
Tiếp đến phía Trung Quốc tấn công HQ-605. Nó nhanh chóng bốc cháy, buộc chỉ huy của nó phải ra lệnh bỏ tàu.
Điều đáng lo ngại nhất về video này là những gì đã xảy ra sau đó. Tại thời điểm đó, những người lính Việt Nam còn sống sót trên các rạn san hô hoàn toàn không phải là mối đe dọa cho quân Trung Quốc. Tuy nhiên, đoạn video cho thấy súng của hải quân Trung Quốc đang tập trung vào Gạc Ma nơi những người sống sót phía Việt Nam không có một chỗ trú ẩn. Những tiếng súng liên thanh cào rạn san hô khi đối phương không có vũ khí tự vệ, nhẫn nhịn đứng chịu trận, chờ đợi cuộc tấn công dữ dội cuối cùng – số phận của họ đã được định đoạt khi từng người một, họ ngã xuống để bảo vệ đất nước. Đối với những kẻ tấn công Trung Quốc, thách thức với họ chỉ là câu cách ngôn “bắt cá trong chậu”.
Video còn để lại một hoài nghi. Người Việt Nam dễ bị tấn công. Người ta chỉ có thể cảm nhận sự bất lực, họ cảm thấy điều đó khi người Trung Quốc bắt đầu nổ súng tàn sát không thương tiếc. Chín người Việt Nam sống sót sau đó bị giam giữ trong ba năm.
Hiện nay, Trung Quốc đang chiếm bãi đá ngầm, trên đó họ đã có căn cứ và đang xây dựng một sân bay. Việt Nam đã mất 64 chiến sĩ dũng cảm ngày hôm đó. Trong số những người sống sót, Lanh bị thương nặng.
Nhưng tại sao Trung Quốc, sau 24 năm im lặng, lại công bố video?
Câu trả lời nằm ở Haiyang Shiyou 981 của Trung Quốc, một giàn khoan nửa nổi nửa chìm được triển khai vào ngày 2 tháng 5 năm 2012 tại Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa, nơi quyền sở hữu vẫn đang là tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Động thái này của Trung Quốc gây ra một số cuộc đối đầu trên biển.
Một tháng sau đó, Trung Quốc không hề nao núng đã phát hành video như là lời đe dọa ngấm ngầm rằng những gì đã xảy ra vào năm 1988 có thể xảy ra một lần nữa.
Rõ ràng Trung Quốc dự định sử dụng các mối đe dọa quân sự có thể – không bị thách thức bởi bất kỳ nước láng giềng nào trong khu vực,  hơn là ngoại giao để “đàm phán” giải quyết vấn đề chủ quyền.
Trong khi hành động tàn bạo năm 1988 của Trung Quốc tại Gạc Ma là vụ thảm sát “thế giới chưa từng biết đến”, thì việc Bắc Kinh công bố một cách trắng trợn video ghi lại vụ việc cung cấp cơ hội nữa để chắc chắn rằng lần này nó lại như vậy.
—-
Tác giả: Ông Zumwalt là Trung tá Thủy quân Lục chiến về hưu, đã từng phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, cuộc đổ bộ vào kênh đào Panama và cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất. Ông thường viết bài phê bình về những vấn đề chính sách đối ngoại và quốc phòng cho nhiều tờ báo. Ông cũng là tác giả của 3 cuốn sách: “Bare Feet, Iron Will—Stories from the Other Side of Vietnam’s Battlefields,” “Living the Juche Lie: North Korea’s Kim Dynasty” and “Doomsday: Iran—The Clock is Ticking” 
 



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford!
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh!
Tưởng niệm tháng tư 75
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi
Tỷ lệ dân số độc thân Việt Nam và Đông Nam Á
Đất nước tiến lên đỉnh cao Mại Dâm chủ nghĩa, hoa hậu, hoa khôi giá cao, hoa hậu thế giới VN cao nhất 200 triệu đồng/phát
Nỗi nhục dân tộc do những công dân gương mẫu CSBV tức CHXHCNVN

     Đọc nhiều nhất 
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi [Đã đọc: 824 lần]
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin [Đã đọc: 468 lần]
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến [Đã đọc: 399 lần]
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế [Đã đọc: 361 lần]
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học [Đã đọc: 337 lần]
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt [Đã đọc: 333 lần]
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ [Đã đọc: 285 lần]
Tưởng niệm tháng tư 75 [Đã đọc: 276 lần]
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975 [Đã đọc: 243 lần]
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng [Đã đọc: 238 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.