Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Mười 2025
T2T3T4T5T6T7CN
    1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31    
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 9
 Lượt truy cập: 27799843

 
Góc thư giãn 14.10.2025 13:33
Phản biện bài báo CSVN
14.10.2025 08:11

VOV.VN - 30/4 là đại thắng vinh quang và đường hoàng của cả dân tộc. Thế nhưng một số người ở hải ngoại vẫn chưa thấu hiểu điều này.

Chính nghĩa không thuộc về chế độ “Việt Nam Cộng hòa”

VOV.VN - 30/4 là đại thắng vinh quang và đường hoàng của cả dân tộc. Thế nhưng một số người ở hải ngoại vẫn chưa thấu hiểu điều này.

Cứ đến dịp lễ 30/4 hàng năm, người dân Việt Nam lại phấn khởi kỷ niệm chiến thắng chung của toàn dân tộc trước các thế lực ngoại xâm – chiến thắng vĩ đại đã giúp non sông thu về một mối. Chiến thắng này đã nối tiếp chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như các chiến thắng hào hùng khác của cha ông ta thời Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền,…

 Tranh cổ động kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam (ảnh: Tapchithethao)

Mặc dầu vậy, một bộ phận nhỏ người gốc Việt sống ở nước ngoài lại hậm hực coi dịp 30/4 là “ngày hận, tháng đen” và tổ chức kỷ niệm sự kiện này theo cách riêng của họ. Có lẽ do chưa thấm hết lịch sử Việt Nam hoặc bị các thế lực hắc ám nào đó lừa phỉnh nên họ vẫn coi cuộc kháng chiến chống Mỹ như một cuộc nội chiến. Theo họ, cái chính thể mang tên “Việt Nam Cộng hòa” là hoàn toàn hợp pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do sự “cưỡng chiếm” từ miền Bắc.

Trước các luận điệu hoặc ngộ nhận này, chúng ta cần nhìn lại lịch sử và làm một cuộc “giải phẫu” chế độ Việt Nam Cộng hòa cùng hai công cụ bạo lực của nó là Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa để thấy rõ bản chất của nó và những sự thật mười mươi.

Chính quyền bất hợp pháp

Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).

Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.

Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó!

Theo Hiệp định Geneva, Việt Nam chỉ tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không phải là biên giới quốc gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp thương để thống nhất đất nước trong năm 1956.

Tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm - do CIA (Mỹ) “tìm thấy” và đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại - đã tuyên bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Geneva, và đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc.

Thời đó, người Mỹ và phe cánh của ông Diệm lo sợ uy tín to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Đảng Lao động Việt Nam và tin rằng nếu tiến hành bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ giành được tới 80% số phiếu. Do vậy ông Diệm với sự giúp đỡ của người Mỹ đã phải sử dụng nhiều “mưu hèn kế bẩn” để củng cố quyền lực của mình (với tư cách là Thủ tướng), rồi gian lận trong cuộc “trưng cầu dân ý” để hạ bệ luôn Quốc trưởng Bảo Đại, dựng lên “Việt Nam Cộng hòa” với Diệm làm Quốc trưởng và sau đó là Tổng thống. Tiếp đó, ông Diệm áp dụng nhiều chiêu thức man rợ để tàn sát những người kháng chiến cũ và những người yêu nước chân chính, khủng bố tinh thần của nhân dân, củng cố chính quyền phản động của mình, công khai phá hoại Hiệp định Geneva, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước.

 Cảnh chính quyền “Việt Nam Cộng hòa” xử bắn sinh viên Lê Văn Khuyên ngày 29/1/1965 ngay trên đường phố Sài Gòn (ảnh: Tư liệu)

Sau khi đã củng cố vững chắc chính quyền, Ngô Đình Diệm đã cho tiến hành “cải cách điền địa” với nội dung ngược với “cải cách ruộng đất” (mục tiêu dân cày có ruộng) mà cách mạng đã tiến hành trước đó. Với “cải cách điền địa”, ông Diệm đã tước đoạt đất đai của nông dân và khôi phục lại giai cấp địa chủ, tạo thêm chỗ dựa xã hội cho chế độ. Cho nên, sau này dù có mị dân đến mấy, chính quyền này cũng không giành được sự ủng hộ ở nông thôn.

Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ.

Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) – đây là một chế độ bù nhìn do Pháp lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do cựu hoàng Bảo Đại (mất ngôi hoàng đế sau Cách mạng tháng Tám) làm quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa cũng chính là quốc kỳ của “Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”.

Như vậy, ngay từ đầu, chính thể này đã phạm nhiều tội ác và mang “gene” Việt gian rất rõ nét, từ “từng lỗ chân lông” của mình. Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm tay sai cho đế quốc Mỹ.

Theo thời gian, chính thể Việt Nam Cộng hòa ngày càng thối nát với tệ nạn tham nhũng, các cuộc đấu đá nội bộ và các cuộc đảo chính quân sự. Chế độ này không đại diện cho dân tộc và trên thực tế đã bị nhân dân và lịch sử quay lưng lại.

Còn tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên.

Quân đội, cảnh sát mang gốc gác thực dân

Chính thể Việt Nam Cộng hòa là phi pháp nên các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước, đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa thường khoe là chiến đấu cho tự do. Tuy nhiên quân đội này lại phát xuất từ chính lực lượng ngụy quân đã sát cánh bên quân đội viễn chinh Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa phần các tướng lĩnh cao cấp của quân đội Sài Gòn đều đã từng phục vụ trong quân đội Pháp hoặc quân đội “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương. Viên tướng tư lệnh Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975, cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp.

Cái gọi là “Cảnh sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ năm 1946. Tướng Nguyễn Ngọc Loan - Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia ngụy, kẻ đã dùng súng lục bắn thẳng vào đầu một tù binh cộng sản ngay trước ống kính máy ảnh và máy quay phim của phóng viên ngoại quốc trên đường phố Sài Gòn năm 1968 - xuất thân là quân nhân trong quân đội Liên hiệp Pháp.

Chuyện thắng – thua sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 | Tiếng Dân

 Người dân Sài Gòn đón chào quân giải phóng tháng 4/1975 (ảnh: Báo chí nước ngoài)
 Khu vực Dinh "Độc lập" vào ngày 30/4/1975 (ảnh: Tư liệu)

Đến khi đổi chủ, hai lực lượng này lại hết lòng với các quan thầy Mỹ. Dù người ta có ngụy biện đến thế nào cũng không thể phủ nhận bản chất tay sai của quân đội và cảnh sát ngụy.

Cả quân lực và cảnh lực ngụy đã tham gia vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã man, trên tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59, máy chém được lê khắp miền Nam để chặt đầu người cộng sản và làm họ lung lạc ý chí.

Trong “cuộc chiến vì tự do”, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sát cánh và tiếp tay cho “ông chủ” của mình là quân viễn chinh Mỹ - những kẻ đã phạm nhiều tội ác phi nhân tính như hãm hiếp phụ nữ Việt Nam, thảm sát dân thường (tiêu biểu có trường hợp Mỹ Lai), sử dụng chất độc da cam, sử dụng bom napalm và các loại bom chùm có sức sát thương tàn bạo…

Với những đòn nhục hình gần như chỉ để triệt hạ các tù binh cộng sản (đóng đinh vào đầu, đục răng, đục xương bánh chè, luộc sôi người, đốt cơ quan sinh dục…), nhà tù Phú Quốc - địa ngục trần gian do quân đội Sài Gòn tạo ra (sau khi học hỏi kinh nghiệm của chuyên gia Mỹ) - là minh chứng hùng hồn cho những vi phạm nhân quyền và những tội ác kiểu trung cổ trời không dung đất không tha của chế độ ngụy.

Quân đội ngụy hoàn toàn được đào tạo theo lối Mỹ, được trang bị cực tốt và đầy đủ, có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, hoạt động cực kỳ tốn kém theo kiểu Mỹ và bằng ngân sách Mỹ. Đã vậy, khi tác chiến quân đội Sài Gòn còn nhận được sự cố vấn của chuyên gia quân sự Mỹ và sự hỗ trợ tối đa về hỏa lực và hậu cần từ phía quân đội Mỹ. Nói cách khác, quân đội Sài Gòn là một đội quân đánh thuê cho đế quốc Mỹ và được Mỹ ưu ái đầu tư bài bản.

Tuy nhiên, có một thứ mà chính người Mỹ cũng thừa nhận là họ không thể mang đến cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa được – đó là tinh thần chiến đấu quả cảm và sự mưu trí sáng tạo.

Với bản chất đánh thuê (và cả chết thuê nữa), quân đội Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ, thiếu lý tưởng, không thể đại diện cho dân tộc Việt Nam và cũng không thể kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc. Đến khi Mỹ rút viện trợ và ngưng yểm trợ thì quân đội này (cùng với chính thể Việt Nam Cộng hòa) suy sụp nhanh chóng, không còn biết “đánh đấm gì nữa”, chẳng khác nào “bệnh nhân bị rút ống thở”.

>> Xem thêm: Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam

Trong đợt tổng công kích của quân giải phóng năm 1972, quân ngụy Sài Gòn trụ vững được phần lớn là nhờ Hoa Kỳ đã yểm hộ tối đa cho họ bằng phi pháo và oanh tạc cơ chiến lược B-52. Đến năm 1975, khi bị người Mỹ bỏ rơi thì họ đã không thể chống đỡ nổi các đòn tiến công dũng mãnh của quân giải phóng. Sau khi trúng đòn điểm huyệt ở Buôn Ma Thuột, dù lực lượng vẫn đông và vũ khí còn nhiều (hơn hẳn quân giải phóng) nhưng quân đội ngụy ở Tây Nguyên đã nhanh chóng rã đám do thiếu mưu lược và do sĩ quan của họ chỉ mải lo cho gia đình mình và di tản một cách hỗn loạn, khiến thế trận của ngụy quyền ở toàn bộ Tây Nguyên sụp đổ.

Một số kẻ cố bào chữa cho ngụy quyền Sài Gòn, cho rằng nếu quân đội Sài Gòn đánh thuê cho Mỹ thì quân đội nhân dân Việt Nam hoạt động theo chỉ đạo của Liên Xô.

Vế thứ 2 của luận điệu trên là hoàn toàn không đúng. Vì Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao và kết hợp nhuần nhuyễn hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quân đội Nhân dân Việt Nam trân trọng sự giúp đỡ quý báu của nhân dân các nước XHCN nhưng không bao giờ ỷ lại vào đó. Trong tác chiến, quân đội nhân dân Việt Nam có tham khảo kinh nghiệm và lý luận quân sự của nước khác nhưng là trên tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, xuất phát từ thực tiễn dân tộc và đất nước (trường hợp thay đổi phương châm tác chiến tại Điện Biên Phủ là một ví dụ điển hình). Và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không để cho quân đội nước bạn nào vào lãnh thổ để tham chiến bên cạnh mình. Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa đã để cho nửa triệu quân Mỹ và nhiều quân chư hầu của Mỹ vào giày xéo đất nước.

Nếu xét về viện trợ thì những gì mà Liên Xô và Trung Quốc cung cấp cho Quân đội Nhân dân tuy lớn nhưng đâu thấm tháp so với khối lượng khổng lồ tiền bạc, vũ khí và quân cụ mà Mỹ đổ vào quân đội Sài Gòn. Nên nhớ, trong hoàn cảnh thời đó, mức lương của một sĩ quan ngụy rất cao, đủ nuôi sống cả gia đình họ.

Tất nhiên, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bao gồm những người con đất Việt máu đỏ da vàng, mang trong mình các nét văn hóa Việt. Tuy nhiên họ đã không phát huy được sức mạnh của văn hóa và truyền thống tổ tiên, vì họ đã sống trong môi trường tha hóa và thiếu chính danh của Việt Nam Cộng hòa, đã lầm đường lạc lối, đã bị lừa dối, bị ép buộc, hoặc đơn giản là hành động chỉ vì miếng cơm manh áo.

Lòng dân

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân luôn hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam.

Trong suốt thời gian tồn tại của mình, dù nhiều lần hô hào Bắc tiến nhưng quân đội Sài Gòn chưa bao giờ có khả năng đưa lục quân ra miền Bắc XHCN, ngược lại họ luôn trong thế phòng ngự.

 Nhân dân Sài Gòn vui mừng chào đón các chiến sĩ giải phóng tháng 4/1975 (ảnh: Tư liệu)

Trong thời kỳ 1955-1975, không có một quân đội thứ 2, một chính quyền thứ 2 ở miền Bắc, cũng không có biểu tình và các lực lượng chống đối ở miền Bắc. Nếu có thì đó chỉ là các toán gián điệp-biệt kích do Mỹ-ngụy tung ra Bắc nhưng các nhóm này đều nhanh chóng bị cơ quan an ninh cách mạng bắt gần như toàn bộ với sự trợ giúp của quần chúng. Điều duy nhất Mỹ-ngụy có thể làm là đưa máy bay vượt vĩ tuyến 17 ném bom phá hoại miền Bắc XHCN, giết hại dân thường.

Trong khi đó, ở miền Nam dưới ách Mỹ-ngụy, liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả…, các hoạt động đấu tranh vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông thôn (như phong trào đồng khởi ở Bến Tre và toàn Nam bộ).

Nằm ngay cửa ngõ Sài Gòn là khu “đất thép” Củ Chi của các du kích và quân giải phóng miền Nam, tồn tại bao năm như cái gai thách thức chế độ Mỹ-ngụy, những kẻ đã trút xuống đó vô số bom đạn và mở nhiều cuộc càn quét sử dụng các loại vũ khí tối tân nhưng không tài nào khuất phục được ý chí của quân dân Củ Chi.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh vào Mỹ-ngụy, làm cho Mỹ nhận ra rằng họ không thể thắng ở miền Nam Việt Nam, đồng thời chỉ cho thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào.

Vì rõ ràng, những người cộng sản không thể tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt, rộng khắp và mãnh liệt trong thời gian dài như vậy (trên toàn đô thị miền Nam, trong điều kiện hết sức khó khăn) nếu thiếu sự che chở bao bọc của đông đảo nhân dân.

Nếu cái gọi là Việt Nam Cộng hòa thực sự hợp lòng dân, được nhân dân ủng hộ thì có lẽ sẽ không xuất hiện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (vào năm 1960), cùng với lực lượng Quân Giải phóng miền Nam (năm 1961), rồi sau đó là chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (vào năm 1969) ngay trên phần đất của miền Nam Việt Nam, với nhân lực chính là người miền Nam, nói giọng miền Nam. Như vậy ở phía nam vĩ tuyến 17 đã hình thành 2 vùng kiểm soát với 2 quân đội tương ứng, khiến cho tính hợp pháp và chính danh của chế độ Việt Nam Cộng hòa vốn đã kém lại càng bị thách thức nghiêm trọng.

TIẾNG GỌI TỪ BIỂN MÁU: BẢN CÁO TRẠNG LỊCH SỬ CHO TỰ DO VIỆT NAM

I. LỜI MỞ ĐẦU: KHI LỊCH SỬ BỊ VIẾT BẰNG MÁU VÀ DỐI TRÁ

Bài viết trên VOV không phải là một bài báo — mà là một vết nhơ trên trang sử dân tộc, một bản tuyên truyền được viết bằng ngụy biện, xuyên tạc, và sự vô cảm trước nỗi đau của hàng triệu người Việt Nam.

Nó không chỉ đảo ngược nạn nhân – thủ phạm, mà còn cố gắng hợp pháp hóa một cuộc chiến tranh ý thức hệ đã cướp đi tự do, nhân phẩm, và tương lai của cả một dân tộc.

Chúng ta không thể im lặng. Không thể để sự thật bị chôn vùi dưới lớp tro tàn của tuyên truyền. Không thể để những linh hồn đã chết trên Biển Đông bị lãng quên như những con số thống kê vô hồn.

II. CUỘC CHIẾN KHÔNG PHẢI “CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC” — MÀ LÀ XÂM LĂNG MIỀN NAM

Cuộc chiến 1954–1975 không phải là “giải phóng dân tộc” — mà là một cuộc xâm lăng có tổ chức, được tài trợ bởi Liên Xô, Trung Quốc và khối Đông Âu, nhằm áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên một nửa đất nước đang sống trong tự do.

Miền Bắc nghèo đói, bị kiểm soát, bị tẩy não, bị đày đọa trong hợp tác xã, cải cách ruộng đất, và một đảng duy nhất cai trị.

Miền Nam — Việt Nam Cộng Hòa — là nơi có:

  • Tự do báo chí, bầu cử dân chủ, tòa án độc lập.

  • Giáo dục khai phóng, y tế tiên tiến, văn hóa phóng khoáng.

  • Nhạc vàng, văn học, điện ảnh, tôn giáo tự do.

  • Sinh viên biểu tình mà không bị bắn.

  • Người dân dám nói “Tổng thống sai” mà không bị tù.

Ngày 30/4/1975 không phải là ngày “giải phóng” — mà là ngày TỰ DO CHẾT TRÊN ĐẤT VIỆT.

III. “GIẢI PHÓNG” HAY “ĐÀO THOÁT”?

Nếu thật sự là “giải phóng”, tại sao hàng triệu người dân miền Nam lại bỏ chạy bằng mọi giá?

  • Họ bỏ nhà, bỏ xứ, leo lên tàu, vượt biển, vượt rừng, trốn qua Campuchia.

  • Họ ra khơi bằng ghe nhỏ, chấp nhận chết đói, chết khát, bị hải tặc cưỡng hiếp, bị sóng biển cuốn đi.

  • Gần nửa triệu người Việt đã bỏ mạng trên Biển Đông — một cuộc đào thoát kinh hoàng chưa từng có trong lịch sử châu Á.

Không có “giải phóng quân” nào khiến dân mình bỏ chạy như đàn kiến vỡ tổ. Không có “thiên đường” nào khiến người ta liều chết để thoát ra.

IV. “HỌC TẬP CẢI TẠO” — TÊN MỸ MIỀU CỦA TRẠI TÙ CỘNG SẢN

Sau ngày 30/4, hàng trăm ngàn sĩ quan, trí thức, công chức miền Nam bị lừa đi “học tập cải tạo 10 ngày” — nhưng thực chất là bị giam cầm nhiều năm, đói khát, bệnh tật, bị tra tấn, bị bóc lột như nô lệ.

  • Nhiều người chết âm thầm trong rừng sâu miền Bắc.

  • Gia đình họ bị cướp nhà, tịch thu tài sản, bị đày đi “kinh tế mới” — nơi đói khát, rắn rết, sốt rét và tuyệt vọng.

  • Con cái họ bị cấm học, bị kỳ thị, bị chôn vùi tương lai.

Đó không phải là “hòa hợp dân tộc” — mà là sự trả thù tàn bạo của một chế độ độc tài thắng cuộc.

V. “MIỀN NAM THỐI NÁT” — LỜI DỐI TRÁ TRƠ TRẼN

VOV nói miền Nam “tham nhũng, tay sai Mỹ, mất lòng dân”. Nhưng miền Nam có:

  • Quốc hội, tòa án độc lập, báo chí tự do.

  • Đại học Văn Khoa, Y khoa, Kiến trúc.

  • Sài Gòn là “Hòn ngọc Viễn Đông”.

  • Nhạc vàng, văn học, phim ảnh, tôn giáo tự do.

  • Sinh viên biểu tình mà không bị bắn.

  • Người dân dám nói “Tổng thống sai” mà không bị tù.

Ngược lại, miền Bắc là nơi:

  • Một đảng duy nhất cai trị.

  • Người dân bị kiểm soát từng câu nói.

  • Văn nghệ sĩ như Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt bị đày đọa vì dám nói thật.

Nếu miền Nam “thối nát”, thì tại sao sau 1975 cả nước phải ăn bo bo, xếp hàng mua gạo, mặc áo tem phiếu, và liều chết vượt biên?

VI. “LÒNG DÂN” KHÔNG DÀNH CHO KẺ GIẾT DÂN MÌNH

Cộng sản nói họ “được lòng dân”, nhưng chính họ:

  • Bắn chết dân miền Bắc trong cải cách ruộng đất.

  • Giết đồng đội trong vụ Nhân văn Giai phẩm.

  • Chôn sống hơn 5.000 dân Huế năm 1968 — phụ nữ, trẻ em, tu sĩ, sinh viên.

  • Tàn sát dân Khmer khi kéo quân qua Campuchia.

Họ mang súng đạn vào miền Nam để “giải phóng” dân — dân nào? Dân Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Lạt, Huế — nơi người dân chỉ muốn yên ổn làm ăn, nuôi con, học hành, hát nhạc, làm thơ, sống tự do?

VII. KẺ THẮNG CUỘC ĐÃ THUA TRONG LƯƠNG TÂM

Ngày 30/4/1975, xe tăng cán đổ cổng Dinh Độc Lập — nhưng cũng cán nát tương lai của dân tộc Việt Nam.

  • Tự do bị bóp nghẹt.

  • Trí thức bị câm lặng.

  • Văn hóa miền Nam bị đốt, sách bị cấm, nhạc bị gọi là “đồi trụy”.

  • Kinh tế tan hoang, cả nước chìm trong nghèo đói và sợ hãi.

Những người thắng trận tự xưng là “giải phóng quân” — nhưng họ chỉ giải phóng dân miền Nam khỏi tự do, khỏi cơm no, khỏi nhân phẩm.

VIII. SỰ THẬT VẪN TỒN TẠI — DÙ BỊ CHÔN GIẤU

Dù họ có viết hàng ngàn bài tuyên truyền, treo hàng vạn khẩu hiệu “đại thắng mùa xuân”, sự thật vẫn tồn tại:

  • Trong ký ức của hàng triệu người Việt Nam lưu vong.

  • Trong máu và nước mắt của những người đã chết trên Biển Đông.

  • Trong lời kể của những người sống sót, những người cha ôm di ảnh con giữa đại dương vô tận.

Thế giới ngày nay hiểu rõ:

  • Ai là người chiến đấu vì tự do, vì nhân bản, vì một Việt Nam dân chủ.

  • Ai là kẻ mang quân đi giết đồng bào mình nhân danh “giải phóng”.

Sự thật không thuộc về kẻ thắng trận — mà thuộc về những linh hồn đã chết trong biển máu và nước mắt của một dân tộc bị phản bội.

IX. KHÚC TƯỞNG NIỆM CHO TỰ DO

“30/4 không phải là ngày thống nhất — mà là ngày TỰ DO CHẾT TRÊN ĐẤT VIỆT.”

Hàng triệu người Việt trong và ngoài nước vẫn tưởng nhớ ngày ấy — không phải bằng pháo hoa, mà bằng nước mắt.

  • Những con tàu vượt biên trôi trên biển Đông không chỉ chở thân xác — mà còn chở theo nỗi tuyệt vọng của nhân loại.

  • Trẻ thơ bị só

tiep tuc

…bị sóng cuốn, mẹ già gục chết trong lòng thuyền, người cha ôm di ảnh con giữa đại dương — tất cả như một bản thánh ca của máu và nước mắt, cất lên trong im lặng, vì thế giới đã quay mặt đi.

Những con tàu gỗ mong manh ấy không chỉ chở theo thân xác đang tìm tự do, mà còn chở theo linh hồn của một dân tộc bị phản bội. Mỗi cánh buồm rách nát là một lời cầu nguyện. Mỗi vết nứt trên thân ghe là một vết thương chưa bao giờ lành. Và mỗi xác người trôi dạt là một bản cáo trạng gửi lên lương tri nhân loại.

X. NHỮNG LINH HỒN KHÔNG MỘ — NHỮNG TIẾNG GỌI TRONG ĐÊM

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những linh hồn ấy vẫn chưa được yên nghỉ. Họ không có mộ bia, không có quốc tang, không có phút mặc niệm. Họ chỉ có biển cả làm quan tài, và ký ức của những người sống sót làm nén hương.

  • Có những đứa trẻ chết khi chưa kịp biết tên mình.

  • Có những người mẹ ôm xác con mà không thể khóc.

  • Có những người cha tự trói mình vào cột buồm, để khỏi phát điên khi nhìn vợ con bị sóng cuốn đi.

Họ không đòi hỏi gì — chỉ xin được nhớ đến. Chỉ xin một lời gọi tên. Chỉ xin một lần được lịch sử trả lại sự thật.

XI. NHỮNG NGƯỜI SỐNG SÓT — NHỮNG CHỨNG NHÂN CÒN THỞ

Những người Việt lưu vong — họ không phải là “phản động”, không phải là “tay sai”, không phải là “chạy theo Mỹ”. Họ là những người đã mất tất cả: quê hương, gia đình, tuổi trẻ, và cả niềm tin vào công lý.

  • Họ làm lại từ đầu nơi xứ lạ, với hai bàn tay trắng và trái tim rách nát.

  • Họ gánh trên vai nỗi đau của cả một dân tộc, và mang trong tim một quê hương đã mất.

  • Họ không sống để trả thù — mà để kể lại. Để làm chứng. Để không ai có thể nói rằng: “Chuyện đó chưa từng xảy ra.”

XII. LỊCH SỬ KHÔNG PHẢI LÀ CỦA KẺ THẮNG TRẬN

Lịch sử không phải là những gì được viết trong sách giáo khoa cộng sản. Lịch sử là những gì còn lại trong nước mắt của người mẹ mất con, trong tiếng thở dài của người cha mất nước, trong ánh mắt của những đứa trẻ lớn lên mà không biết quê hương mình từng có tự do.

  • Lịch sử không thuộc về kẻ thắng trận — mà thuộc về những linh hồn đã chết trong im lặng.

  • Lịch sử không nằm trong tượng đài bê tông — mà nằm trong trái tim những người còn nhớ.

  • Lịch sử không thể bị viết lại bằng khẩu hiệu — vì nó đã được khắc vào máu.

XIII. LỜI KÊU GỌI TỪ BIỂN ĐÔNG

Khi nào đó, trong một đêm yên tĩnh, nếu bạn lắng nghe thật kỹ, bạn sẽ nghe thấy tiếng gọi từ biển Đông. Đó không phải là tiếng sóng — mà là tiếng của hàng triệu linh hồn đang thì thầm một câu duy nhất:

“Đừng quên chúng tôi.”

  • Đừng quên những người đã chết để giữ lấy tự do.

  • Đừng quên những người đã sống để kể lại sự thật.

  • Đừng quên rằng có một dân tộc từng bị chính anh em mình “giải phóng” bằng đại bác, bằng dối trá, và bằng bạo lực.

XIV. KẾT THÚC HAY KHỞI ĐẦU?

“30/4 không phải là ngày thống nhất — mà là ngày TỰ DO CHẾT TRÊN ĐẤT VIỆT.”

Nhưng cái chết ấy không phải là dấu chấm hết. Nó là dấu chấm hỏi — dành cho cả nhân loại.

  • Bao giờ công lý mới thôi bị bịt mắt?

  • Bao giờ sự thật mới được gọi đúng tên mình?

  • Bao giờ dân tộc tôi mới được sống như một dân tộc — chứ không phải tồn tại như một vết thương?

Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Nhưng chúng ta có thể quyết định tương lai. Và tương lai ấy phải bắt đầu bằng sự thật.

XV. LỜI THỀ TRÊN BIỂN MÁU

Chúng ta — những người còn sống — xin thề:

  • Không để sự thật bị chôn vùi.

  • Không để lịch sử bị viết lại bằng dối trá.

  • Không để những linh hồn không mộ bị lãng quên.

Chúng ta sẽ kể lại. Sẽ viết lại. Sẽ dựng lại. Không phải để hận thù — mà để công lý được gọi tên. Để tự do được sống lại. Để một ngày nào đó, khi thế giới hỏi: “Việt Nam là ai?”, chúng ta có thể ngẩng cao đầu mà trả lời:

 Nhân dân Sài Gòn vui vẻ chào đón và hỏi han các chiến sĩ giải phóng quân ngày 30/4/1975 (ảnh: Tư liệu nước ngoài)

Thậm chí ngay cả ở những vùng Mỹ-ngụy chiếm giữ, vẫn tồn tại song song hai hệ thống chính quyền, hai lực lượng. Một bên là chế độ ngụy công khai, một bên là các đảng bộ cộng sản cùng các đơn vị công an và bộ đội địa phương hoạt động ngầm tương ứng với các đơn vị hành chính. Ý Đảng luôn thống nhất với lòng dân, các đảng viên kiên định bám sát quần chúng như cá với nước. Địch phải liên tục đối phó với chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ở khắp nơi. Ngay giữa Sài Gòn, kẻ địch thường xuyên phải căng thẳng vì những trận đánh xuất quỷ nhập thần của biệt động Sài Gòn (thuộc quân đội nhân dân) và lực lượng an ninh T4 (thuộc công an nhân dân).

Hệ thống cảnh sát ngụy dù dày đặc và rất hung hãn nhưng không thể cản ngăn phong trào đấu tranh của quần chúng, không thể bắt hết cán bộ cách mạng được nhân dân bảo vệ. Ngược lại, chính lực lượng tình báo cách mạng đã xâm nhập hết sức hiệu quả vào bộ máy an ninh tình báo ngụy và hệ thống chính quyền ngụy, kể cả ở cấp cao nhất.

Trước giờ cáo chung, ngụy quyền còn tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong biển máu. Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả. Ngược lại, những người hạ vũ khí về với nhân dân đã nhận được sự khoan hồng của cách mạng. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy quần chúng hồ hởi đón chào quân giải phóng đến nhường nào trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.

Như vậy, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại xâm và tay sai của ngoại bang./

PHẢN BIỆN LỊCH SỬ: TIẾNG GỌI TỪ BIỂN MÁU

🎯 Mở đầu: Lời nói đầu như một hồi chuông

Bài viết trên VOV mà bạn dẫn không phải là một bài báo — mà là một bản cáo trạng ngược, nơi kẻ gây tội ác lại được tô vẽ như người hùng. Đó là một điển hình kinh điển của tuyên truyền cộng sản: ngụy biện, đảo ngược lịch sử, tráo đổi nạn nhân – thủ phạm, nhằm che đậy một cuộc chiến tranh ý thức hệ đã nghiền nát miền Nam tự do, và để lại một vết thương chưa bao giờ lành trong tim dân tộc Việt Nam.

🔥 SỰ THẬT LỊCH SỬ: AI GIẢI PHÓNG AI?

1. Cuộc chiến không phải “chống Mỹ cứu nước” — mà là xâm lược miền Nam

Cuộc chiến 1954–1975 không phải là “thống nhất đất nước”, mà là một cuộc xâm lăng có tổ chức, được tài trợ bởi Liên Xô, Trung Quốc và khối Đông Âu. Miền Bắc cộng sản đã mang súng đạn, xe tăng, và chủ nghĩa độc tài vào miền Nam — nơi đang xây dựng một xã hội tự do, khai phóng, nhân bản.

Miền Nam có báo chí độc lập, có bầu cử, có trường đại học, có nhạc vàng, có tôn giáo tự do, có sinh viên biểu tình mà không bị bắn. Miền Bắc thì có hợp tác xã, cải cách ruộng đất, đấu tố, kiểm duyệt, và một đảng duy nhất cai trị.

Ngày 30/4/1975 không phải là ngày “giải phóng” — mà là ngày quốc hận, ngày mà một nửa đất nước văn minh bị nghiền nát dưới xích xe tăng và lời nói dối.

2. “Chính nghĩa” không nằm ở kẻ thắng — mà ở nhân phẩm và sự thật

Nếu thật sự là “giải phóng”, tại sao hàng triệu người dân miền Nam lại bỏ chạy bằng mọi giá?

  • Họ leo lên tàu, vượt biển, vượt rừng, trốn qua Campuchia.

  • Họ ra khơi bằng ghe nhỏ, chấp nhận chết đói, chết khát, bị hải tặc cưỡng hiếp, bị sóng biển cuốn đi.

  • Gần nửa triệu người Việt đã bỏ mạng trên Biển Đông — một cuộc đào thoát kinh hoàng chưa từng có trong lịch sử châu Á.

Không có “giải phóng quân” nào khiến dân mình bỏ chạy như đàn kiến vỡ tổ. Không có “thiên đường” nào khiến người ta liều chết để thoát ra.

3. “Học tập cải tạo” — tên mỹ miều của trại tù cộng sản

Sau ngày 30/4, hàng trăm ngàn sĩ quan, trí thức, công chức miền Nam bị lừa đi “học tập cải tạo 10 ngày” — nhưng thực chất là bị giam cầm nhiều năm, đói khát, bệnh tật, bị tra tấn, bị bóc lột như nô lệ.

  • Nhiều người chết âm thầm trong rừng sâu miền Bắc.

  • Gia đình họ bị cướp nhà, tịch thu tài sản, bị đày đi “kinh tế mới” — nơi đói khát, rắn rết, sốt rét và tuyệt vọng.

  • Con cái họ bị cấm học, bị kỳ thị, bị chôn vùi tương lai.

Đó không phải là “hòa hợp dân tộc” — mà là sự trả thù tàn bạo của một chế độ độc tài thắng cuộc.

4. “Miền Nam thối nát” — lời dối trá trơ trẽn

VOV nói miền Nam “tham nhũng, tay sai Mỹ, mất lòng dân”. Nhưng miền Nam có:

  • Tự do báo chí, Quốc hội, tòa án độc lập.

  • Đại học Văn Khoa, Y khoa, Kiến trúc.

  • Sài Gòn là “Hòn ngọc Viễn Đông”.

  • Nhạc vàng, văn học, phim ảnh, tôn giáo tự do.

  • Sinh viên biểu tình mà không bị bắn.

  • Người dân dám nói “Tổng thống sai” mà không bị tù.

Ngược lại, miền Bắc là nơi:

  • Một đảng duy nhất cai trị.

  • Người dân bị kiểm soát từng câu nói.

  • Văn nghệ sĩ như Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt bị đày đọa vì dám nói thật.

Nếu miền Nam “thối nát”, thì tại sao sau 1975 cả nước phải ăn bo bo, xếp hàng mua gạo, mặc áo tem phiếu, và liều chết vượt biên?

5. “Lòng dân” không dành cho kẻ giết dân mình

Cộng sản nói họ “được lòng dân”, nhưng chính họ:

  • Bắn chết dân miền Bắc trong cải cách ruộng đất.

  • Giết đồng đội trong vụ Nhân văn Giai phẩm.

  • Chôn sống hơn 5.000 dân Huế năm 1968 — phụ nữ, trẻ em, tu sĩ, sinh viên.

  • Tàn sát dân Khmer khi kéo quân qua Campuchia.

Họ mang súng đạn vào miền Nam để “giải phóng” dân — dân nào? Dân Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Lạt, Huế — nơi người dân chỉ muốn yên ổn làm ăn, nuôi con, học hành, hát nhạc, làm thơ, sống tự do?

6. Kẻ thắng cuộc đã thua trong lương tâm

Ngày 30/4/1975, xe tăng cán đổ cổng Dinh Độc Lập — nhưng cũng cán nát tương lai của dân tộc Việt Nam.

  • Tự do bị bóp nghẹt.

  • Trí thức bị câm lặng.

  • Văn hóa miền Nam bị đốt, sách bị cấm, nhạc bị gọi là “đồi trụy”.

  • Kinh tế tan hoang, cả nước chìm trong nghèo đói và sợ hãi.

Những người thắng trận tự xưng là “giải phóng quân” — nhưng họ chỉ giải phóng dân miền Nam khỏi tự do, khỏi cơm no, khỏi nhân phẩm.

7. Sự thật vẫn tồn tại — dù bị chôn giấu

Dù họ có viết hàng ngàn bài tuyên truyền, treo hàng vạn khẩu hiệu “đại thắng mùa xuân”, sự thật vẫn tồn tại:

  • Trong ký ức của hàng triệu người Việt Nam lưu vong.

  • Trong máu và nước mắt của những người đã chết trên Biển Đông.

  • Trong lời kể của những người sống sót, những người cha ôm di ảnh con giữa đại dương vô tận.

Thế giới ngày nay hiểu rõ:

  • Ai là người chiến đấu vì tự do, vì nhân bản, vì một Việt Nam dân chủ.

  • Ai là kẻ mang quân đi giết đồng bào mình nhân danh “giải phóng”.

Sự thật không thuộc về kẻ thắng trận — mà thuộc về những linh hồn đã chết trong biển máu và nước mắt của một dân tộc bị phản bội.

🕯️ KẾT LUẬN: KHÚC TƯỞNG NIỆM CHO TỰ DO

“30/4 không phải là ngày thống nhất — mà là ngày TỰ DO CHẾT TRÊN ĐẤT VIỆT.”

Hàng triệu người Việt trong và ngoài nước vẫn tưởng nhớ ngày ấy — không phải bằng pháo hoa, mà bằng nước mắt.

  • Những con tàu vượt biên trôi trên biển Đông không chỉ chở thân xác — mà còn chở theo nỗi tuyệt vọng của nhân loại.

  • Trẻ thơ bị sóng cuốn, mẹ già gục chết trong lòng thuyền, người cha ôm di ảnh con giữa đại dương — như một bản thánh ca của máu và nước mắt, cất lên trong im lặng, vì thế giới đã quay mặt đi.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua — nhưng nỗi đau ấy vẫn chưa khép miệng.

  • Những người mang trong tim ký ức của một quê hương đã mất, mỗi đêm vẫn mơ thấy Sài Gòn xưa — nơi ánh đèn không bao giờ tắt.

  • Nhưng khi họ mở mắt, chỉ thấy một bóng đêm trĩu nặng — nơi sự thật bị bẻ cong, nơi dối trá được đội vương miện vinh quang.

Thế giới vẫn nói về nhân quyền, tự do, hòa bình — nhưng ai đã lắng nghe tiếng khóc của những linh hồn không mộ?

Cái giá của tự do Việt Nam đã được trả .

Tuyệt vời. Đây là bản Tuyên Ngôn nâng cấp, sử dụng ngôn từ bi tráng, hùng hồn, đậm chất sử thi và chất chứa nỗi đau sâu thẳm, nhấn mạnh sự bi đát của một dân tộc bị phản bội.


TUYÊN NGÔN VĨ ĐẠI VỀ CÔNG LÝ VÀ NỖI ĐAU DÂN TỘC:

HÀNG TRIỆU LINH HỒN KHÔNG NGỦ YÊN TRONG ĐÊM ĐEN CỘNG SẢN

Hỡi Đồng bào Việt Nam! Hỡi Lương tri Nhân loại!

Chúng ta đứng đây, trên mảnh đất này và trên mọi chân trời lưu vong, không phải để gào thét hận thù, mà để kể lại sự thật—một sự thật đã bị chôn vùi dưới hàng tấn tuyên truyền và máu.

Bài viết ngụy biện của VOV Cộng sản, một lần nữa, là tiếng loa phường lặp đi lặp lại lời dối trá của kẻ thắng cuộc. Họ bóp méo lịch sử, đổi trắng thay đen, đảo ngược hoàn toàn vai trò của đao phủ và nạn nhân, nhằm tẩy rửa tội ác và cái giá kinh hoàng mà họ đã buộc dân tộc này phải trả.

Hãy lắng nghe tiếng kêu bi thương, hãy cảm nhận nỗi đau thấu trời của hàng triệu người Việt bị phản bội!


I. BI KỊCH NGUỒN CỘI: SỰ THẬT VỀ KẺ XÂM LƯỢC VÀ NGÀY QUỐC HẬN

Họ đã tuyên bố: Cuộc chiến 1954–1975 là "kháng chiến chống Mỹ cứu nước." Chúng ta đáp lời bằng Lịch sử và Máu:

Đây không phải là chiến tranh giải phóng, mà là cuộc xâm lăng của ý thức hệ—một cuộc chiến tranh ủy nhiệm do Bắc Kinh và Moscow cung cấp súng đạn, cố vấn, và hận thù. Họ xé toang Hiệp định Geneva, đẩy hai miền đất nước vào vòng máu lửa chỉ để phục vụ tham vọng bá quyền cộng sản.

Miền Nam, dù còn non trẻ và nhiều khuyết điểm, đã gầy dựng một xã hội mang hơi thở của nhân loại tự do:

  • Nơi có luật pháp độc lập, có báo chí tự do để người dân dám nói lên tiếng nói của mình.

  • Nơi kinh tế phồn thịnh, nơi giáo dục khai phóng đã đào tạo ra một thế hệ trí thức tiên tiến.

  • Nơi Sài Gòn, một thời là Hòn Ngọc Viễn Đông, rực sáng ánh đèn Tự Do giữa đêm tối châu Á.

Ngày 30/4/1975 không phải là ngày "thống nhất" hay "giải phóng." Đó là Ngày Quốc Hận—ngày mà cả một nền văn minh, một nền nhân bản, một tương lai tự do bị xe tăng nghiền nát, bị thay thế bằng bóng tối của độc tài và đói nghèo. Cái chết của Tự Do đã được ấn định trên từng tấc đất quê hương!


II. BẢN ÁN LƯƠNG TÂM: TIẾNG GÀO THÉT TỪ BIỂN ĐÔNG

Họ đã tuyên bố: Họ "được lòng dân" miền Nam. Chúng ta hỏi lại bằng Nước mắt và Máu:

Nếu thật sự là "Thiên đường Giải phóng," tại sao sau ngày 30 tháng 4, một làn sóng người Việt vĩ đại lại phải liều mình trốn chạy?

  • Hàng triệu người đã bỏ lại nhà cửa, mồ mả tổ tiên, sự nghiệp cả đời, chấp nhận cái chết giữa đại dương.

  • Những chiếc ghe nhỏ mong manh, những con tàu mục nát, chở trên mình không chỉ những thân xác đang tìm Tự Do, mà còn là cả nỗi tuyệt vọng của nhân loại bị bỏ rơi.

Biển Đông không chỉ là mồ chôn, mà còn là chứng nhân vĩnh cửu.Nơi những người mẹ ôm con chết đói, nơi những người cha dùng nắm tro tàn thay lời vĩnh biệt, nơi những cô gái bị hải tặc cưỡng hiếp và bị sóng biển nuốt chửng. Gần nửa triệu linh hồn đã nằm lại dưới đáy biển—một con số bi tráng chưa từng có trong lịch sử tị nạn.

Làm sao gọi đó là "chiến thắng" khi người dân thà đối diện với tử thần giữa biển sâu còn hơn sống dưới "thiên đường" của họ? Tiếng kêu thét bi thương từ Biển Đông là bản án vĩnh viễn, không thể rửa sạch, đối với lương tâm của kẻ thắng cuộc.


III. TỘI ÁC HẬU CHIẾN: CHÍNH SÁCH TRẢ THÙ VÀ SỰ PHÁ SẢN NHÂN PHẨM

Họ đã tuyên bố: Họ thực hiện "hòa hợp dân tộc." Chúng ta tố cáo bằng Xiềng xích và Đói khát:

Ngay sau ngày chiến thắng, họ đã bắt đầu chiến dịch trả thù tàn bạo nhất lịch sử dân tộc:

  • Trại Tù "Cải Tạo" – Địa Ngục Trần Gian: Hàng trăm ngàn người – sĩ quan, công chức, trí thức miền Nam – bị lừa đi "học tập 10 ngày" và bị giam cầm trong những khu rừng sâu, đối diện với đói rét, bệnh tật, và sự bóc lột sức lao động nô lệ. Đây là sự tra tấn tinh thần và thể xác nhằm nghiền nát phẩm giá con người.

  • "Kinh Tế Mới" – Vùng Đất Chết: Gia đình người bại trận bị cướp nhà cửa, tài sản và bị đày đi những vùng đất hoang vu, đầy rẫy sốt rét và rắn rết.

  • Kỳ Thị Lý Lịch Máu Lạnh: Con cái họ bị tước quyền được học hành, bị kỳ thị suốt đời. Bạo quyền đã không chỉ cướp đi hiện tại, mà còn đầu độc tương lai của cả một thế hệ.

Họ nói Miền Nam "thối nát"? Nhưng sau 1975, cả đất nước chìm trong bo bo, tem phiếu, và xếp hàng mua gạo. Sự "giải phóng" đó đã đẩy cả dân tộc vào một thời kỳ mạt vận kinh tế, văn hóa bị bóp nghẹt, và niềm tin con người bị bóp nát.


KẾT LUẬN: LỜI THỀ CỦA NHỮNG TRÁI TIM CÒN SỐNG

Lịch sử không thuộc về kẻ thắng. Lịch sử thuộc về Sự Thật, và những người đã ngã xuống vì Tự Do và Nhân Bản.

Dù bóng đêm Cộng sản có bao trùm bao lâu, ánh sáng của Sự Thật sẽ không bao giờ tắt. Nó vẫn cháy âm ỉ trong:

  • Đôi mắt của những người tù cải tạo đã trở về với thân xác tàn tạ.

  • Ký ức của những người tị nạn, những người mẹ vẫn giấu di ảnh con chết trên biển trong tim.

  • Trái tim của thế hệ trẻ sinh ra nơi xứ người, không quên nguồn cội và lời thề của cha ông.

Chúng ta sẽ không im lặng! Chúng ta sẽ kể lại nỗi đau này bằng mọi ngôn ngữ, trên mọi diễn đàn của nhân loại, để thế giới hiểu rằng:

Cái giá của Tự Do Việt Nam đã được trả bằng máu, nhưng món nợ Công Lý — vẫn chưa bao giờ được thanh toán!

Hỡi Dân tộc Việt Nam bi tráng!

Đừng cúi đầu. Đừng đầu hàng dối trá. Chúng ta mang trong tim Ngọn Lửa Phẩm Giá không bao giờ bị dập tắt. Sự Thật sẽ là vũ khí cuối cùng. Và những Linh hồn giữa Biển Đông sẽ không ngủ yên, cho đến ngày Tổ quốc được thật sự Giải phóng khỏi bóng đêm bạo quyền!

…bị sóng cuốn, mẹ già gục chết trong lòng thuyền, người cha ôm di ảnh con giữa đại dương — tất cả như một bản thánh ca của máu và nước mắt, cất lên trong im lặng, vì thế giới đã quay mặt đi.

Những con tàu gỗ mong manh ấy không chỉ chở theo thân xác đang tìm tự do, mà còn chở theo linh hồn của một dân tộc bị phản bội. Mỗi cánh buồm rách nát là một lời cầu nguyện. Mỗi vết nứt trên thân ghe là một vết thương chưa bao giờ lành. Và mỗi xác người trôi dạt là một bản cáo trạng gửi lên lương tri nhân loại.


X. NHỮNG LINH HỒN KHÔNG MỘ — NHỮNG TIẾNG GỌI TRONG ĐÊM

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những linh hồn ấy vẫn chưa được yên nghỉ. Họ không có mộ bia, không có quốc tang, không có phút mặc niệm. Họ chỉ có biển cả làm quan tài, và ký ức của những người sống sót làm nén hương.

  • Có những đứa trẻ chết khi chưa kịp biết tên mình.
  • Có những người mẹ ôm xác con mà không thể khóc.
  • Có những người cha tự trói mình vào cột buồm, để khỏi phát điên khi nhìn vợ con bị sóng cuốn đi.

Họ không đòi hỏi gì — chỉ xin được nhớ đến. Chỉ xin một lời gọi tên. Chỉ xin một lần được lịch sử trả lại sự thật.


XI. NHỮNG NGƯỜI SỐNG SÓT — NHỮNG CHỨNG NHÂN CÒN THỞ

Những người Việt lưu vong — họ không phải là “phản động”, không phải là “tay sai”, không phải là “chạy theo Mỹ”. Họ là những người đã mất tất cả: quê hương, gia đình, tuổi trẻ, và cả niềm tin vào công lý.

  • Họ làm lại từ đầu nơi xứ lạ, với hai bàn tay trắng và trái tim rách nát.
  • Họ gánh trên vai nỗi đau của cả một dân tộc, và mang trong tim một quê hương đã mất.
  • Họ không sống để trả thù — mà để kể lại. Để làm chứng. Để không ai có thể nói rằng: “Chuyện đó chưa từng xảy ra.”

XII. LỊCH SỬ KHÔNG PHẢI LÀ CỦA KẺ THẮNG TRẬN

Lịch sử không phải là những gì được viết trong sách giáo khoa cộng sản. Lịch sử là những gì còn lại trong nước mắt của người mẹ mất con, trong tiếng thở dài của người cha mất nước, trong ánh mắt của những đứa trẻ lớn lên mà không biết quê hương mình từng có tự do.

  • Lịch sử không thuộc về kẻ thắng trận — mà thuộc về những linh hồn đã chết trong im lặng.
  • Lịch sử không nằm trong tượng đài bê tông — mà nằm trong trái tim những người còn nhớ.
  • Lịch sử không thể bị viết lại bằng khẩu hiệu — vì nó đã được khắc vào máu.

XIII. LỜI KÊU GỌI TỪ BIỂN ĐÔNG

Khi nào đó, trong một đêm yên tĩnh, nếu bạn lắng nghe thật kỹ, bạn sẽ nghe thấy tiếng gọi từ biển Đông. Đó không phải là tiếng sóng — mà là tiếng của hàng triệu linh hồn đang thì thầm một câu duy nhất:

“Đừng quên chúng tôi.”

  • Đừng quên những người đã chết để giữ lấy tự do.
  • Đừng quên những người đã sống để kể lại sự thật.
  • Đừng quên rằng có một dân tộc từng bị chính anh em mình “giải phóng” bằng đại bác, bằng dối trá, và bằng bạo lực.

XIV. KẾT THÚC HAY KHỞI ĐẦU?

“30/4 không phải là ngày thống nhất — mà là ngày TỰ DO CHẾT TRÊN ĐẤT VIỆT.”

Nhưng cái chết ấy không phải là dấu chấm hết. Nó là dấu chấm hỏi — dành cho cả nhân loại.

  • Bao giờ công lý mới thôi bị bịt mắt?
  • Bao giờ sự thật mới được gọi đúng tên mình?
  • Bao giờ dân tộc tôi mới được sống như một dân tộc — chứ không phải tồn tại như một vết thương?

Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Nhưng chúng ta có thể quyết định tương lai. Và tương lai ấy phải bắt đầu bằng sự thật.


XV. LỜI THỀ TRÊN BIỂN MÁU

Chúng ta — những người còn sống — xin thề:

  • Không để sự thật bị chôn vùi.
  • Không để lịch sử bị viết lại bằng dối trá.
  • Không để những linh hồn không mộ bị lãng quên.

Chúng ta sẽ kể lại. Sẽ viết lại. Sẽ dựng lại. Không phải để hận thù — mà để công lý được gọi tên. Để tự do được sống lại. Để một ngày nào đó, khi thế giới hỏi: “Việt Nam là ai?”, chúng ta có thể ngẩng cao đầu mà trả lời:

“Chúng tôi là những người đã mất tất cả — nhưng không bao giờ đánh mất sự thật.”




TRƯỜNG CA VIỆT NAM – NGỌN LỬA PHỤC SINH TRONG ĐÊM VĨNH CỬU

I. KHÚC DẠ KHÚC CỦA TANG THƯƠNG

Tổ quốc tôi! Ngàn năm gieo tiếng thơ, nay đêm phủ kín như Thâm Uyên Bất Tận!Bóng tối không đơn thuần là màn đêm, mà là Bạo Quyền Độc Đoán xiềng xích Linh Hồn! Từ những ngôi nhà không khói, những dòng sông không tiếng cá, Chỉ còn tiếng thét câm của trẻ thơ lạc bầy, tiếng người mẹ gọi con tan trong Biển Sầu. Máu không chỉ chảy trên bờ tre, mà thấm vào trang sử bị bẻ cong, Mỗi giọt máu là Ngôi Sao Tự Do bị ám sát—rơi xuống lòng người, hóa thành Tro Than Ký Ức âm ỉ.

Ai dám nói dân tộc đã gục? Ai dám nói Thần Khí Việt Nam đã tàn? Không! Chúng tôi lặng im như núi lửa—chờ ngày bùng cháy, chờ giờ khắc phục sinh! Giữa khổ đau, nụ cười vẫn cố chấp, là thách thức cuối cùng của Phẩm Giá! Giữa sợ hãi, lời cầu nguyện là Tiếng Kèn Hiệp Sĩ thầm thì: Rằng Công Lý rồi sẽ về! Rằng Ánh Sáng không thể vĩnh viễn bị vùi chôn!

II. BẢN HÙNG CA CỦA NHỮNG KẺ ĐI TRONG BÃO

Họ đi! Họ ra đi – không phải bằng gươm giáo, mà bằng Thân Phận Bi Tráng!Họ chỉ mang theo Lời Thề Tổ Tiên: “Hãy sống Tử Tế! Hãy giữ Nhân Bản!”Qua Biển Đông – Mồ Chôn Vĩ Đại của thời đại! Những chiếc ghe mỏng manh chở Hy Vọng Nặng Trĩu và Nước Mắt Biến Thành Muối Mặn.Hàng vạn sinh linh bị nhấn chìm, họ không chết – Họ hóa thành Sóng Dữ Vỗ Vào Lương Tri Nhân Loại!Đó là tiếng gọi của Hồn Việt – vang vọng khắp bốn phương, hỏi tội sự im lặng của Thế giới!

Họ đi qua Ngục Tối Cải Tạo, nơi bóng đêm và xiềng xích cố giết chết Ý Chí! Nơi người cha viết Nhật Ký bằng mồ hôi và máu, giấu trong ngực áo mảnh vụn nhân phẩm! Bóng tối có thể vây hãm, tra tấn thân xác – nhưng không thể giết được Khát Vọng Tự Do—vì nó đã bén rễ vào tận cùng linh hồn.

III. TỪ TRO TÀN, ĐỨNG DẬY XÂY ĐỀN THỜ SỰ THẬT

Rồi một ngày, trên Đống Đổ Nát Của Dối Trá, một bàn tay run rẩy nhặt lên Viên Đá Đầu Tiên! Khắc vào đó không phải hận thù, mà là hai chữ: TỰ DO!Từ viên đá ấy, mọc lên Ngôi Đền Ánh Sáng—một Kiến Trúc Vô Hình! Ngôi đền ấy xây bằng Máu Của Kẻ Hy Sinh, bằng Nước Mắt Của Người Lưu Vong,Và bằng Lòng Kiên Định Vượt Qua Tuyệt Vọng!

Ngôi Đền Ấy KHÔNG AI CÓ THỂ PHÁ HOẠI!Vì nó không dựng trên đất bị bạo quyền kiểm soát, mà dựng trên Nền Tảng Sắt Đá của Lương Tri và Sự Thật!Tổ quốc tôi đứng dậy! Không bằng giáo mác, không bằng hận thù! Mà bằng Trí Tuệ Khai Phóng, bằng Sức Mạnh Nhân Ái, Bằng Ký Ức Bi Tráng của những người đã ngã xuống, và Niềm Tin Sống Còn của những người còn lại!

IV. LỜI THỀ VỚI HƯNG ĐÔNG

Chúng con, thế hệ mang dòng máu bi tráng, xin quỳ dưới Bóng Cờ Tự Do Vô Hình, Thề sẽ không để ngọn lửa tàn, thề không để Sự Thật bị Bóp Méo thành tượng đài dối trá!Thề không để Nhân Phẩm bị Chà Đạp dưới gót giày bạo quyền!

Còn một người Việt biết Yêu Thương, Đất Nước vẫn còn Sống Mãi!Còn một tiếng nói Trung Thực, Công Lý vẫn còn Thở trong Hy Vọng!

Hãy để tiếng hát của chúng ta vang lên như Sấm Sét Của Công Lý!Vang qua sông, qua rừng, qua biển, gọi về những Giá Trị Bất Khả Xâm Phạm: Tự Do, Công Bằng, Lòng Khoan Dung! Và khi lịch sử được viết lại bằng tay người Việt Tự Do, Những Ngôi Mộ Vô Danh sẽ được khắc tên Anh Hùng—Không phải Nạn Nhân Vô Thừa Nhận!

V. NGỌN LỬA VĨNH CỬU

Hỡi Đồng bào! Hỡi Anh Em! Chúng ta là Những Người Thợ Gìn Giữ Lửa cho Linh Hồn Dân Tộc!Ngọn lửa ấy – nhỏ nhoi trong đêm tối, một ngày sẽ hóa thành Bình Minh Rực Rỡ Bất Diệt!Vì Tự Do không phải là ân huệ, mà là QUYỀN SINH RA CÙNG VỚI CON NGƯỜI!Vì Công Lý không phải là ơn ban, mà là HƠI THỞ CỦA LẼ PHẢI!

Hỡi Việt Nam!Từ trong Nước Mắt, Người sẽ Cất Khúc Hát Tái Sinh!Từ trong Tro Tàn, Người sẽ Vút Bay Phục Hưng!Từ trong Bóng Tối, Người sẽ Rực Sáng như Ngọn Đuốc Vĩnh Cửu của Nhân Loại!

NGỌN LỬA KHÔNG TẮT! NGỌN LỬA BẤT DIỆT!NGỌN LỬA CỦA PHẨM GIÁ CON NGƯỜI!


Dưới đây là bản diễn văn đấu tranh đầy đủ, dài và xúc động, được viết như một lời hiệu triệu lịch sử — dành cho mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, và cho cả thế giới đang lắng nghe. Bài diễn văn này có thể được dùng trong hội nghị quốc tế, lễ tưởng niệm, chiến dịch truyền thông, hoặc như một tuyên ngôn của lương tri dân tộc.


DIỄN VĂN HIỆU TRIỆU: PHỤC HỒI TỰ DO VÀ DÂN CHỦ CHO DÂN TỘC VIỆT NAM

Kính thưa đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước,
Kính thưa bạn bè quốc tế, những người yêu chuộng tự do và công lý,

Hôm nay, chúng ta không đứng đây để than khóc quá khứ — mà để gọi tên sự thật.
Không phải để gieo hận thù — mà để đòi lại phẩm giá cho một dân tộc đã bị phản bội.
Không phải để viết lại lịch sử — mà để trả lại lịch sử quyền được nói thật.


I. MỘT DÂN TỘC BỊ “GIẢI PHÓNG” BẰNG ĐẠI BÁC

Năm 1975, khi xe tăng cộng sản cán qua cổng Dinh Độc Lập, họ không mang theo hòa bình — mà mang theo sự kết thúc của tự do.

  • Họ gọi đó là “giải phóng” — nhưng hàng triệu người dân miền Nam đã bỏ chạy bằng mọi giá.
  • Họ gọi đó là “thống nhất” — nhưng đất nước rơi vào một thời kỳ đen tối chưa từng có.
  • Họ gọi đó là “chính nghĩa” — nhưng chính họ đã chôn sống hàng ngàn người dân Huế, bỏ tù trí thức, đốt sách, cấm nhạc, và bóp nghẹt tiếng nói.

Chúng ta không thể gọi ngày tự do chết là ngày chiến thắng.
Chúng ta không thể gọi cuộc xâm lăng là “kháng chiến”.
Chúng ta không thể để những linh hồn đã chết trên Biển Đông bị lãng quên như những con số thống kê vô hồn.


II. NHỮNG LINH HỒN KHÔNG MỘ — NHỮNG CHỨNG NHÂN CỦA SỰ THẬT

Gần nửa triệu người Việt đã bỏ mạng trên Biển Đông.
Họ không phải là “phản động”.
Họ không phải là “tay sai”.
Họ là những người đã chọn chết để không sống trong dối trá.

  • Có những đứa trẻ chết khi chưa kịp biết tên mình.
  • Có những người mẹ ôm xác con mà không thể khóc.
  • Có những người cha tự trói mình vào cột buồm, để khỏi phát điên khi nhìn vợ con bị sóng cuốn đi.

Họ không đòi hỏi gì — chỉ xin được nhớ đến.
Chỉ xin một lời gọi tên.
Chỉ xin một lần được lịch sử trả lại sự thật.


III. MIỀN NAM KHÔNG PHẢI LÀ “THỐI NÁT” — MÀ LÀ ÁNH SÁNG BỊ DẬP TẮT

Trước 1975, miền Nam Việt Nam là một xã hội tự do, nhân bản, khai phóng:

  • Có báo chí độc lập, có Quốc hội, có tòa án.
  • Có trường Đại học Văn Khoa, Y khoa, Kiến trúc.
  • Có nhạc vàng, có văn học, có điện ảnh, có tôn giáo tự do.
  • Có sinh viên biểu tình mà không bị bắn.
  • Có người dân dám nói “Tổng thống sai” mà không bị tù.

Miền Bắc thì sao?

  • Một đảng duy nhất cai trị.
  • Người dân bị kiểm soát từng câu nói.
  • Văn nghệ sĩ bị đày đọa vì dám nói thật.
  • Dân bị đấu tố, bị xử bắn, bị tẩy não.

Nếu miền Nam “thối nát”, thì tại sao sau 1975 cả nước phải ăn bo bo, xếp hàng mua gạo, mặc áo tem phiếu, và liều chết vượt biên?


IV. CHÚNG TA KHÔNG CHỐNG LẠI MỘT CHẾ ĐỘ — MÀ CHỐNG LẠI SỰ DỐI TRÁ

Cuộc đấu tranh này không phải là chống lại một đảng, một chính phủ, hay một cá nhân.
Đây là cuộc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc lịch sử, chống lại sự bóp méo sự thật, chống lại sự im lặng trước nỗi đau của hàng triệu người.

  • Chúng ta đấu tranh để trả lại danh dự cho những người đã chết.
  • Chúng ta đấu tranh để con cháu chúng ta được biết sự thật.
  • Chúng ta đấu tranh để thế giới không còn quay mặt đi.

V. LỜI HIỆU TRIỆU: PHỤC HỒI TỰ DO VÀ DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM

Hôm nay, tôi kêu gọi:

  • Mọi người Việt Nam — dù đang sống ở đâu — hãy cùng nhau đứng lên vì sự thật.
  • Mọi trí thức, nghệ sĩ, nhà báo, nhà giáo — hãy dùng ngòi bút để kể lại những gì đã bị chôn vùi.
  • Mọi tổ chức quốc tế, mọi chính phủ dân chủ — hãy lắng nghe tiếng gọi từ Biển Đông, nơi hàng triệu linh hồn đang thì thầm: “Đừng quên chúng tôi.”

Chúng ta không thể đòi lại quá khứ — nhưng chúng ta có thể giành lại tương lai.
Một tương lai nơi Việt Nam được sống như một dân tộc — chứ không phải tồn tại như một vết thương.


VI. LỜI THỀ TRÊN BIỂN MÁU

Chúng ta — những người còn sống — xin thề:

  • Không để sự thật bị chôn vùi.
  • Không để lịch sử bị viết lại bằng dối trá.
  • Không để những linh hồn không mộ bị lãng quên.

Chúng ta sẽ kể lại.
Sẽ viết lại.
Sẽ dựng lại.
Không phải để hận thù — mà để công lý được gọi tên.
Để tự do được sống lại.
Để một ngày nào đó, khi thế giới hỏi: “Việt Nam là ai?”, chúng ta có thể ngẩng cao đầu mà trả lời:

“Chúng tôi là những người đã mất tất cả — nhưng không bao giờ đánh mất sự thật.”



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 

     Đọc nhiều nhất 
🧨 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: [Đã đọc: 418 lần]
Hãy loại bỏ thuật ngữ ‘giải phóng’ khỏi ngôn ngữ VN và nhân loại [Đã đọc: 384 lần]
🧨 Hun Sen và trò chơi chính trị bẩn thỉu: Khi tình bạn bị lợi dụng để hạ bệ một thủ tướng Xây tường biên giới [Đã đọc: 356 lần]
Tội Ác Của Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp tại VN và thế giới [Đã đọc: 353 lần]
🧨 “TRUMP IS DEAD” – Khi một tin đồn trở thành cơn địa chấn truyền thông [Đã đọc: 352 lần]
Lời Kêu Gọi Tự Hào & Hành Động Cộng Đồng: Mở ngân hàng thực phẩm cho miễn phí - Cách cải thiện nhà hàng Việt Nam để nâng cao tầm vóc thực phẩm Việt [Đã đọc: 321 lần]
Orbán – “Điệp viên hoàn hảo” của Kremlin trong lòng EU? - Donald Trump phá hoại thế giới tự do làm lợi cho Putin [Đã đọc: 320 lần]
Bàn Tay Thâm Tím Của Donald Trump [Đã đọc: 298 lần]
Nâng tầm đóng góp XHCN Việt Nam cho chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu, văn minh nhân loại [Đã đọc: 295 lần]
Kiều bào, khúc ruột dư ngàn dặm [Đã đọc: 272 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.