Thế giới lên án CSBV cưỡng chiếm miền Nam, Canada thông qua dự luật Hành Trình Tự Do 30-4, VC phản đối
24.04.2015 15:20
Việt Nam triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối Canada thông qua đạo luật S-219 xem ngày 30/4 là “Ngày hành trình tìm tự do”.
Hôm 22/4, dự luật này được chính phủ Canada công nhận.
Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 24/4 nói đây là đạo luật “hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử”.
“Việt Nam kiên quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này,” người phát ngôn Lê Hải Bình tuyên bố.
Hà Nội nói đã triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối hôm 24/4.
Ông Lê Hải Bình nhấn mạnh: “Đây là bước lùi trong quan hệ giữa hai nước, gây ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada.”
Đạo luật “Ngày hành trình tìm tự do” do một người gốc Việt, Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải thuộc Đảng Bảo thủ Canada đại diện cho tỉnh bang ontario, giới thiệu ra Thượng viện năm 2014.
Luật này muốn Canada lấy ngày 30/4 để ghi nhớ việc Canada đón nhận hàng ngàn thuyền nhân Việt Nam sau 1975.
Bộ trưởng Quốc phòng Canada Jason Kenney nói ngày 30/4 “sẽ mang đến cho người dân Canada một cơ hội để nghĩ lại cuộc hành trình của hơn 60.000 người tị nạn Việt Nam đến Canada”.
Việt Cộng triệu Đại sứ Canada để phản đối đạo luật S-219
(NLĐO)- Ngày 24-4, Bộ Ngoại giao đã triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối và nêu rõ quan điểm của Việt Nam về việc Canada thông qua đạo luật S-219 về cái gọi là "Hành trình đến tự do".
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình. Ảnh: Dương Ngọc
Trước việc phía Canada thông qua đạo luật S-219 về cái gọi là “Hành trình đến tự do”, ngày 24-4, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nêu rõ: S-219 là một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có Canada ủng hộ. "Việt Nam kiên quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này" - ông Lê Hải Bình khẳng định.
Theo Người phát ngôn Bộ Ngoại giao, đây là bước lùi trong quan hệ giữa hai nước, gây ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada.
"Trong nhiều năm qua, quan hệ Việt Nam - Canada đã được hai bên nỗ lực phát triển. Chúng tôi hy vọng phía Canada nhận thức rõ ảnh hưởng tiêu cực của việc thông qua đạo luật S-219, có các biện pháp khắc phục, không để xảy ra những sự việc tương tự" - Người phát ngôn Bộ ngoại giao bày tỏ.
Trong ngày 24-4, Bộ Ngoại giao đã triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối và nêu rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này.
Ngày 22-4, dự luật S-219 đã chính thức được Canada công nhận. Dự luật S-219 do thượng nghị sĩ gốc Việt Ngô Thanh Hải bảo trợ, theo đó công nhận ngày 30-4 là ngày kỷ niệm dòng người di cư Việt Nam tới Canada và việc Canada tiếp nhận họ.
Khi được Thượng viện Canada thông qua vào tháng 12-2014, dự luật này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ. Không chỉ từ phía Việt Nam, Hội đồng Thương mại Canada - Việt Nam cũng gửi thư tới Ủy ban Nhân quyền Thượng viện Canada nói rằng dự luật sẽ tác động tiêu cực tới quan hệ ngoại giao với Việt Nam, làm chia rẽ cộng đồng người Canada gốc Việt, do đó tác động tiêu cực tới thương mại, đầu tư giữa hai nước.
Canadian Press dẫn lời Dai Trang Nguyen, Giám đốc Hội đồng, cho rằng dự luật chỉ phản ánh quan điểm của chưa tới 5% người Canada gốc Việt và sẽ thúc đẩy cái nhìn của quá khứ, của sự hận thù, sự tiêu cực, dẫn tới sự phớt lờ những con người của thế hệ tương lai.
Trả lời báo chí, lãnh đạo đảng Tự do trong Thượng viện, thượng nghị sĩ James Cowan đặt câu hỏi làm thế nào Chính phủ Canada có thể phê chuẩn một dự luật gây tranh cãi như vậy trong lúc muốn tăng cường quan hệ kinh tế với châu Á, trong đó có Việt Nam.
Quốc hội Canada thông qua Luật '30/4'
Luật sư Vũ Đức KhanhGửi cho BBC từ Ottawa, Canada
Cuối cùng điều chờ đợi 40 năm nay đã tới như câu nói kinh điển rằng “Hãy trả cho César những gì của César”.
Dự luật S-219 “Ngày Hành trình đến Tự do” do Thượng nghị sỹ Ngô Thanh Hải bảo trợ đã được Quốc hội Canada chính thức biểu quyết thông qua chiều ngày 22/4/2015 lúc 19 giờ 15 phút giờ Ottawa, Canada, tức 7 giờ 15 phút sáng ngày 23/4/2015 giờ Hà Nội, kết thúc quy trình lập pháp kể từ ngày 10/4/2014.
Đạo luật này chính thức công nhận ngày 30 tháng 4 là ngày quốc lễ Canada để tưởng niệm những nạn nhân cộng sản Việt Nam đã liều chết vượt biên ra đi tìm tự do và cũng để cảm ơn chính phủ và nhân dân Canada đã rộng lượng dang rộng vòng tay cưu mang họ gần 40 năm qua.
Điều 2 quy định rằng “Khắp đất nước Canada, hàng năm và mỗi năm, ngày thứ Ba mươi của tháng Tư (30/4) sẽ được biết đến như là “Ngày Hành trình đến Tự do”.
Đạo luật này theo một số Thương nghị sỹ và Dân biểu Canada rằng nó cũng ghi nhận sự trỗi dậy mãnh liệt và những đóng góp to lớn của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Canada.
Một đạo luật không những làm ấm lòng hàng trăm ngàn người Việt tại Canada mà còn là một niềm an ủi, động viên lớn lao cho cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới.
Những mất mát đau thương như đang được chia sẻ và làm lành lại hầu tạo thêm niềm tin cho họ vào công cuộc đấu tranh cùng đồng bào quốc nội cho một tương lai Việt Nam mới, tự do, dân chủ và thịnh vượng.
Một đạo luật dù trong toàn bộ quá trình lập pháp còn có những dư luận trái chiều nhưng là một đạo luật nhận được sự ủng hộ rộng rãi của hầu hết tất cả các Dân biểu và Thượng nghị sỹ Canada.
Đạo luật “Ngày Hành trình đến Tự do” một lần nữa để nhắc nhở mọi người chúng ta nên có cái nhìn trung thực và khách quan về lịch sử. Chúng ta có thể không cùng quan điểm, thậm chí chúng ta có thể đã từng là những đối thủ không đội trời chung với nhau nhưng chúng ta không thể chỉ viết lịch sử cho riêng những người thắng cuộc.
Lịch sử phải luôn công bằng và chỉ nhìn nhận những diễn biến trung thực. Việc đánh giá phê phán lịch sử nên cần hết sức cẩn trọng hầu giúp những thế hệ mai sau tránh đi những cái nhìn lệch lạc, một chiều.
'Ngày hòa hợp, hòa giải'
Ngày 30 tháng 4, ngày hội hòa giải, hòa hợp
Đối với nhiều đảng viên đảng cầm quyền thì “Nhiều người Canada không biết những câu chuyện của thuyền nhân Việt Nam. Ngày này, 30 tháng 4, là ngày [chế độ] Sài Gòn sụp đổ, ngày mà cuộc chạy [tỵ nạn] của người dân miền Nam Việt Nam bắt đầu, ngày mà người Canada sẽ tìm hiểu những gì những người này sẽ làm và đến mức độ nào để họ thoát khỏi những cuộc đàn áp, để nắm lấy sự tự do cho bản thân và cho gia đình của họ”, ông Mark Adler, người đồng bảo trợ dự luật trên cho biết.
Và ông cũng muốn người Canada đừng bao giờ quên rằng đã có hàng triệu Việt Nam sau ngày này đã “chạy trốn sự đàn áp của cộng sản, chạy trốn tù đày, chạy trốn trong rất nhiều trường hợp, cái chết”. Và còn có rất nhiều người khác đã chết mà điển hình trong đó có trên 250.000 thuyền nhân đã vùi sâu vĩnh viễn thân xác họ dưới lòng đại dương bao la.
Ông Dân biểu Mai Hoàng, một chính trị gia Canada gốc Việt trẻ tuyên bố như sau: “Để được rõ ràng, tôi sẽ ủng hộ dự luật. Tôi đã bỏ phiếu thuận ở vòng hai và tôi sẽ bỏ phiếu cho thuận ở vòng ba (cuối cùng). Như tôi đã nói, đối với tôi đó là một cách để tưởng nhớ cội nguồn, nhớ nguồn gốc của tôi, để ghi nhớ nơi quê hương của cha mẹ tôi, và nhớ những người từ Việt Nam. Đó là một cách để tôi hiểu vì sao Canada nơi tôi đang sống là một xứ sở tuyệt vời, nơi mà họ thực sự mở cửa và nơi mà người dân có nguồn gốc khác nhau đều được chào đón.”
Vì thế ngày 30 tháng 4 phải là ngày hội hòa giải, hòa hợp hơn là một ngày chia rẽ, hơn thua, hận thù. Canada không phải là một quốc gia như thế; Canada được thế giới biết như một sứ giả thiện chí của hòa bình; Canada kêu gọi tình người, kêu gọi thương yêu, xây đắp tương lai tươi sáng.
Đó cũng là ý nghĩa trọn vẹn của hai chữ “Tự do”. Chúng ta sẽ không thể có tự do, nếu như chúng ta không biết tha thứ vì chỉ có tha thứ chúng ta mới vứt bỏ được ưu phiền mà an nhiên tự tại. Chúng ta sẽ được tự do khi tất cả các sận si, thù hận đã được hóa giải, nằm yên trong quá khứ.
Cuối cùng, ngày 30/4 đã, đang và sẽ tiếp tục là một ngày trọng đại trong lịch sử Việt Nam, một ngày mà bất cứ ai dù buồn hay vui đều có cơ hội bình đẳng để hồi tưởng, để suy ngẫm về những bước thăng trầm của đất nước, để rút tỉa những bài học đớn đau của quá khứ, để từ đó có thể vượt qua được những hố sâu ngăn cách, những vũng lầy thù hận, tiến đến bên nhau trong tình tự dân tộc, cùng nhau tiến về phía trước vì tiền đồ sáng lạng của Việt Nam.
30 tháng 4: Hãy cùng mơ ước một giấc mơ hoà giải, hoà hợp dân tộc. Một ngày không chỉ riêng người thắng cuộc hỉ hả hay một ngày buồn đau uất hận cho người thua cuộc mà là một ngày của toàn dân Việt Nam hướng đến tương lai một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng.
Cảm ơn Canada đã cho tôi hồi sinh trong giờ tuyệt vọng. Một 30 tháng 4 tràn đầy sức sống, niềm tin và hy vọng.
Đạo Luật S-219: Bản Cáo Trạng dành cho người Cộng sản Việt Nam
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng (Danlambao) - Đạo luật S-219 là một thắng lợi không những của người tranh đấu ở hải ngoại, mà cũng là thắng lợi của những nhà tranh đấu và đồng bào trong nước. Vì đó là Bản Cáo Trạng mà người cộng sản không thể nào chối cãi được, kèm theo những chứng tích của thuyền nhân tại Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân. Đó là những bằng chứng hùng hồn về những vi phạm thô bạo về nhân quyền, tự do, dân chủ khi họ cai trị Việt Nam...
* Thưa quí vị,
Hôm qua ngày 23 tháng tư năm 2015, dự luật S-219 đã trở thành đạo luật và được vị Toàn Quyền Canada, đại diện Nữ Hoàng ký và ban hành.
Có lẽ chúng ta cũng nên quên đi những tranh luận, nhiều lúc, một số người có những lời lẽ nặng nề với người đề xướng dự luật, Thượng Nghị Sĩ Canada gốc Việt, ông Ngô Thanh Hải. Quên đi để đừng tạo thêm rạn nứt giữa những người tranh đấu cho tự do, dân chủ cho đồng bào nơi quê nhà.
Quên đi để cùng nhau hướng về đồng bào ruột thịt thân yêu đang chịu cay đắng, nghèo khó, bị mất nhà cửa ruộng đất đang lâm cảnh màng trời chiếu đất nơi đầu đường, xó chợ ở quê nhà. Quên đi để người cộng sản biết rằng khối người tranh đấu hải ngoại tranh cãi quyết liệt, nhưng họ vẫn đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc trên hết. Khác với người cộng sản đấu đá nhau quyết liệt vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm họ.
Đạo luật S-219 là một thắng lợi không những của người tranh đấu ở hải ngoại, mà cũng là thắng lợi của những nhà tranh đấu và đồng bào trong nước. Vì đó là Bản Cáo Trạng mà người cộng sản không thể nào chối cãi được, kèm theo những chứng tích của thuyền nhân tại Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân. Đó là những bằng chứng hùng hồn về những vi phạm thô bạo về nhân quyền, tự do, dân chủ khi họ cai trị Việt Nam.
Đạo luật được ban hành từ quốc gia đã từng tham gia vào Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến Việt Nam, quốc gia từng được xem như là nước trung lập thì làm sao người cộng sản Việt Nam chối cãi, chạy tội được sau khi chế độ sụp đổ và bị người dân Việt Nam kiện họ ra toà án quốc tế.
Đây là bản cáo trạng hùng hồn về những hành vi tàn bạo của họ khi họ kiêu hãnh với chiến thắng và xem người bại trận, dân chúng miền Nam như cỏ rác, dân thuộc địa nên người thắng trận có toàn quyền làm điều gì họ cần, họ muốn bất chấp luật lệ và đạo lý tối thiểu của con người.
Họ hả hê đem người thua trận đi cầm tù, họ chiếm đoạt của cải, tài sản người miền Nam, đuổi người miền Nam lên chốn rừng thiêng nước độc sinh sống để lấy nhà cửa, ruộng vườn chia cho bọn họ, gia đình, thân nhận họ từ miền Bắc tràn vào chiếm.
Tiếng oán than ngút trời, nước mắt người miền Nam ướt đất, không nổi oan khiêng nào sánh nổi. Sau khi vơ vét tràn túi, đầy nhà, họ xây cung đình, sống xa hoa như bậc đế vương thời phong kiến, kể cả những lãnh tụ các nước tư bản giàu có cũng không có được cuộc sống, gia sản như họ.
Những người cùng đinh, khố rách bỗng chốc trở thành đại tư bản, thì thử họi người dân bị cướp bóc đến ngần nào, đến bậc nào. Người dân vô cùng cực khổ để tạo được cái ao, miếng vườn, chúng đem quân tới đánh chiếm, rồi Đoàn Văn Vương, chủ mảnh đất tạo bằng mồ hôi, nước mắt của vợ con, anh em bỗng chốc mất sạch và vô tù. Trời Phật Chúa nào dung tha họ được.
Vợ chồng con cái anh chị Nguyễn Trung Can, Mai Thị Kim Hương chỉ có ngôi nhà nhỏ tạm mưa trú nắng tại Thạnh Hoá, Long An, nhưng ở nhằm vị trí tốt chúng cũng không tha. Ngày 14 tháng 4 năm 2015 một lực lượng cưỡng chế hùng hậu đến giật sập nhà để chiếm đất.
Cả xóm không thể nén nổi uất hận, họ liều chết, dùng bom xăng và axit để tự vệ, để giữ ngôi nhà lá xiêu vẹo để còn có chỗ che nắng che mưa. Tất cả đều bị CA đánh đập tàn tệ trong lúc bắt giữ. Đến ngày 15/4/2015, ít nhất 7 dân oan hiện vẫn đang bị nhà cầm quyền CSVN giam giữ gồm có:
Phùng Thị Ly, Nguyễn Trung Can, Mai Thị Kim Hương, Phùng Văn Tuân, Nguyễn Trung Tài, Nguyễn Trung Linh, Mai Văn Đạt. Toàn bộ căn lều tạm bợ của vợ chồng ông bà Nguyễn Trung Can, Mai Thị Kim Hương đã bị thiêu rụi. Hiện CA đã dùng tôn quây xung quanh, bít toàn bộ lối ra vào (theo Dân Làm Báo). Không còn cảnh nào trên thế gian nầy tàn bạo hơn cảnh nầy!!
Thượng Nhị Sĩ Ngô Thanh Hải đau lòng với nỗi đau của đồng bào, tôi nghĩ ông âm thầm soạn thảo dự luật không phải để hàng năm tới ngày 30 tháng Tư đem ra kỷ niệm, than khóc rồi về, thế là xong một năm.
Năm sau đem ra diễn lại. Không, ông không làm việc vô nghĩa đó, mà dụng ý sâu sắc của ông là tạo nên một đạo luật quốc gia để ghi lại tội ác của người cộng sản để chính đạo luật đó là bản cáo trạng kết tội mà người cộng sản không thế nào phủ nhận được.
Vì việc lớn nên ông kiên nhẫn nghe không biết bao nhiêu ngôn từ không phù hợp từ một số người mà không hề phản ứng, dù ông có đủ phương tiện làm những người nầy chấm dứt những phỉ báng đó. Ông Hải không muốn làm rạn nứt thêm tình đoàn kết giữa những người tranh đấu, điều đó vô cùng bất lợi cho chúng ta, tôi nghĩ.
Cũng chính vì vậy mà người cộng sản phản ứng rất quyết liệt. Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng gởi thơ phản đối đến Thủ Tướng Harper của Canada; Họ triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối Canada thông qua đạo luật S-219 xem ngày 30/4 là “Ngày Hành Trình Đến Tự Do”.
Họ vung tiền ra mướn những nhóm vận động hành lang (lobby) chuyên nghiệp để thuyết phục quốc hội Canada đừng thông qua dự luật; họ tập họp nhóm Canada thân cộng vào quốc hội để phản bác dự luật, nhưng lẽ phải bao giờ cũng được tôn trọng từ những người văn minh, xã hội văn minh.
Chỉ trong vòng vài ngày tới đây thôi, tin vui nầy sẽ loan truyền đi khắp năm châu. Câu hỏi mà tôi xin mạo muội nêu lên là: Canada làm được, còn Mỹ, Âu Châu, Úc Châu thì sao? Những người tranh đấu trong và ngoài nước hy vọng thấy được từ ngữ YES, WE CAN từ quí vị.
Đây cũng là lúc những gia đình có người vượt biên, vượt biển chết, mất tích đứng ra thành lập Hội Nạn Nhân Cộng Sản, sưu tập bằng chứng để kiện cộng sản Việt Nam ra toà án quốc tế vì chánh sách vô nhân đạo của họ gây ra cái chết của thân nhân mình.
Đồng bào quốc nội đang kiên cường đứng lên bức xiềng xích cộng sản để giành lại tự do, dân chủ và quyền làm người. Đồng bào hải ngoại phải quyết liệt hơn nữa để không phụ lòng tin yêu của đồng bào quê nhà.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng
Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” tại Hạ viện Canada
OTTAWA (05/02/2015) | Sau khi được Thượng viện Canada thông qua ngày 8 tháng 12, Dự luật S-219“Ngày Hành trình tìm Tự do” đã được đưa ra trước Hạ viện lần thứ nhất vào ngày 10 tháng 12, 2014. Chiều thứ Năm, 5 tháng Hai, 2015 lần thứ nhì dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” được đưa ra thảo luận ở Hạ Viện Quốc hội Canada.
Trong buổi thảo luận và tranh luận dài 60 phút này, 6 dân biểu của ba đảng Bảo thủ Cấp tiến (CPC), đảng Tân Dân chủ (NDP), và đảng Tự do (Lib.) đã lần lượt phát biểu. Sau đây là một số trích đoạn của cuộc thảo luận về dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do”.
Một cuộc sống không có tự do thì không còn gì là cuộc sống nữa
Dân biểu Mark Adler. Nguôn: TheStar.com
Mở đầu cuộc thảo luận dân biểu Mark Adler (CPC, York Center), người cùng đỡ đầu Dự luật S-219 tại Hạ viện, ngược dòng lịch lịch sử, sơ lược lại nguyên nhân của sự kiện thuyền nhân, cùng sự đồng loạt của toàn dân và chính phủ Canada lúc đó cùng đứng lên đối phó với cuộc khủng hoảng nhân đạo, mở rộng vòng tay đón nhận nhữn người tị nạn cộng sản đang đi tìm tự do, ông nói
“… ngày 30 tháng Tư năm 1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Sài Gòn, thủ đô của miền Nam Việt Nam, rơi vào tay đoàn quân xâm lược Cộng sản phía bắc, nhưng câu chuyện không chấm dứt ở đó. 30 Tháng 4 năm 1975 là ngày bắt đầu một chương mới trong đời sống của người dân miền Nam Việt Nam.”
[…]
“Dự luật này là biểu tượng của một truyền thống lâu đời của Canada như một ngọn hải đăng của tự do và dân chủ, một quốc gia đã hào hiệp đón nhận những người tị nạn, những người vô tội buộc lòng phải phải rời bỏ quê hương.”
[…]
“ Dự luật này cũng sẽ cho chúng ta một cơ hội tuyệt vời để suy nghĩ về những ưu điểm và sự đa dạng mà cộng đồng người Việt Nam đã mang lại cho đất nước và để cảm ơn họ đã góp phần vào nền văn hóa đa nguyên của chúng ta. Tất cả chúng ta có thể học được đôi điều từ những người tị nạn, những người sẵn sàng mạo hiểm hy sinh tất cả để được sống trong tự do, vì một cuộc sống không có tự do thì không còn gì là cuộc sống nữa.
Tôi là một người Canada thế hệ thứ nhất, và dự luật này đã khiến tôi suy tư về kinh nghiệm của riêng mình, là con của một người sống sót sau Holocaust; cha tôi đến Canada không có gì hơn một mảnh áo trên lưng, với một hàng số xăm trên cánh tay, nhưng quan trọng nhất là niềm hy vọng trong trái tim mình. Đối với rất nhiều người tị nạn đến Canada, giống như những người sống sót sau Holocaust, những thuyền nhân Việt Nam, các Kitô hữu bị bách hại và người Yazidis ở miền bắc Iraq và Syria, và rất nhiều người khác, mỗi người trong số họ đã có quyền quay lưng lại với nhân loại, nhưng họ không làm như vậy. Họ đã đến Canada để tìm hy vọng, hy vọng cho chính họ, đúng thế, nhưng quan trọng hơn, hy vọng cho con cái của họ để chúng không bị buộc phải sống dưới ách áp bức, khủng bố. Họ đã đến Canada vì Canada là một mốc hiệu ánh sáng của thế giới, một quốc gia đứng trong thế mạnh, hãnh diện, tôn trọng những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, và chế độ pháp trị.”
Đối thoại và hàn gắn trước, sau cùng mới có thể nhìn về tương lai
Dân biểu NDP Anne Minh-Thu Quach Beauharnois-Salaberry). Nguồn: INFOSuroit.com
Sau đó là phát biểu của dân biểu đảng Tân Dân chủ Anne Minh-Thu Quach (Beauharnois—Salaberry, NDP), bà nói,
[…]
“Đôi khi chúng ta quên mất ý nghĩa thực sự của cuộc sống ở đây trong một xã hội dân chủ nơi mà người công dân có thể lựa chọn đại biểu Quốc hội của họ, và cả hai, người dân và người được dân cử, đều có thể an toàn thực thi quyền tự do ngôn luận. Hầu hết dân số trên thế giới không thể thực thi được cái quyền cơ bản đó.
Nếu hôm nay tôi có thể đứng đây là một dân biểu Quốc hội và nói chuyện tại Hạ viện là nhờ bố mẹ tôi đã chạy trốn khỏi Việt Nam và đã tìm được nơi nương náu ở đây, tại Canada, để bắt đầu xây dựng gia đình, sống trong thanh bình, và làm việc nuôi thân.
Bản thân tôi, Anne Minh-Thu Quach, sinh ra ở và lớn lên ở Canada, và cũng nhờ sự dũng cảm của cha mẹ tôi và sự đón nhận của Canada nên hôm nay tôi mới có thể tham gia vào đời sống dân chủ của đất nước này.”
[…]
“Tôi may mắn đã được đi Việt Nam để thăm hỏi gia đình của tôi và tìm hiểu vùng đất của tổ tiên tôi. Đó là một đất nước tuyệt vời, nơi của những con người rất đặc biệt và cởi mở. Tôi vẫn còn có nhiều bà con họ hàng sống ở đó, và tôi muốn họ và tất cả mọi người Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam có cơ hội như tôi đang có, để họ có thể sống trong hòa bình, an ninh và hưởng đời sống dân chủ và các quyền con người cơ bản và phổ quát như tôi đang có.
Thật không may, đó chưa phải là thực tế cho tất cả mọi người ở Việt Nam. Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia vào bảy công ước quốc tế về quyền con người. Việt Nam còn là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Quyền con người cũng được xác định trong bản Hiến pháp Việt Nam. Tuy nhiên, luật sư, nhà báo, người viết blog và các công dân bình thường vẫn tiếp tục bị bắt giữ, xét xử và bỏ tù chỉ vì bày tỏ ý kiến riêng của họ.
Hôm nay, chúng ta không phải sợ hãi khi nói sự thật. Mỗi con người có quyền được sống, quyền tự do và có cơ hội bình đẳng. Vì vậy, tôi xin với tay đến tất cả người Việt Nam, và tất cả những người Canada, những người muốn thực hiện cuộc đối thoại này với tôi và với các dân biểu.
Dự luật S-219 cho chúng ta một cơ hội để trao đổi, vì các vết thương đã thưc sự chưa lành. Chúng ta phải nắm lấy cơ hội này để cùng ngồi lại quanh bàn, như tôi đã nói, là người Việt Nam từ tất cả các tầng lớp xã hội, cho tiến trình đối thoại và hàn gắn có thể bắt đầu và sau cùng thì chúng ta mới có thể nhìn về tương lai.”
Sau đó đến dân biểu đảng Tự do Kevin Lamoureux (Winnipeg North, Lib.) phát biểu, ông nói
Dân biểu Lib. Kevin Lamoureux. Nguồn: Politwitter.ca
“Công nhận Ngày Hành trình tìm Tự do, với chúng ta là việc quan trọng, nó đánh dấu một ngày trọng đại đối với lịch sử chung của cộng đồng người Việt Nam trên khắp thế giới. Nó ghi nhận sự kiện Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, sự chiếm lãnh miền Nam Việt Nam của bắc quân, và việc thành lập chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, đồng thời là điểm bắt đầu của cuộc di cư hàng loạt của hàng triệu người dân Việt Nam rời bỏ quê hương của họ.
Đại đa số những người Việt Nam đến Canada vào ngày 1 tháng Giêng năm 1975 là người tị nạn; Canada lúc đó đã có khoảng 1.500 người gốc Việt sinh sống, phần lớn ở Quebec. Sau cuộc khủng hoảng thuyền nhân giữa năm những 1979 và 1982, có khỏang 69.000 người đã đến tị nạn tại Canada. Nhóm người tuyệt vời này cuối cùng đã định cư ở tất cả mọi miền đất nước và họ đã làm phong phú thêm cho đời sống của tất cả người dân Canada. Tôi mong muốn được thấy dự luật này cuối cùng sẽ được đưa vào nghiên cứu ở ủy ban.”
Không phải là một ngày hạnh phúc nhưng đó là một ngày phải nhớ
Dân biểu Bob Dechert (Thư ký Quốc hội cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp, CPC) là người phát biểu tiếp theo. Ông nói,
Dân biểu CPC Bob Dechert. Nguồn: The Star.
“Tôi rất cảm kích có được cơ hội để lên tiếng ủng hộ dự luật quan trọng này. Như tôi đã đề cập, nó công nhận có những người đã thiệt mạng và những đau khổ mà họ đã phải đã trải qua trong cuộc di cư của người Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, ngày mà Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản. Đó là một cuộc chiến, như chúng ta đều biết, hoành hành trong hơn 10 năm. Một cuộc chiến đẫm máu và bạo lực, và cuộc sống của người dân đã bị xé nát. Nó đã làm mất đi quá nhiều sinh linh vô tội.
Đó không phải là một ngày kỷ niệm hạnh phúc, nhưng đó là một ngày mà chúng ta phải nhớ. Chúng ta phải nhớ những sự kiện lịch sử và cần biết những sự kiện đó đã ảnh hưởng thế nào đến mọi người trên khắp thế giới, đặc biệt là những người ở Canada.
Canada đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ hàng chục ngàn người tị nạn sau khi Sài Gòn sụp đổ, theo Ủy ban Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, có hơn 1,5 triệu người Việt Nam bị buộc phải trốn khỏi quê hương của họ dưới sự đe dọa của một cuộc sống bi đát, và một điều cần được lưu ý là sự vi phạm nhân quyền tràn lan ở đó.”
[…]
“Đó là một ví dụ chưa từng có về lòng bác ái của người dân Canada đối với vô số những người đang cần được giúp đỡ. Hơn một phần tư của một triệu người tị nạn Việt Nam đã thiệt mạng trong lòng biển trong cuộc đi tị nạn từ Việt Nam. Trên hành trình đó, 250.000 linh hồn đã mất. Tình hình tại quê hương đã phải là rất tuyệt vọng thì họ mới chấp nhận rủi ro rất lớn, liều mạng lên đường tìm đến tự do. Một số người đã ngã bệnh, trong khi những người khác đã chết đuối hoặc là nạn nhân của bạo lực của quân cướp biển, bị bắt cóc, và đã phải nhận chịu những hình thức bạo lực khác.”
[…]
“Tôi cũng muốn đề cập đến “Tribute to Liberty”, tổ chức đang xây dựng đài tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Nó ở rất gần trong khu vực Quốc hội, gần Tối cao Pháp viện. Chính phủ đã tặng 1,5 triệu đô-la góp phần vào dự án đó. Tôi khuyến khích tất cả mọi người dân Canada truy cập vào trang web, www.tributetoliberty.ca, và đóng góp. Người dân Canada gốc Việt sẽ là một phần rất quan trọng của những người được vinh danh trên di tích đó. Họ là một ví dụ trong số hàng trăm ngàn người dân Canada là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, những người đã đấu tranh để đến được Canada.”
Tribute to Liberty
“Với tất cả những lý do này, để làm rạng danh hơn 300.000 người Canada gốc Việt, những người đóng góp cho sự thịnh vượng và phát triển của Canada là những công dân tích cực làm việc trong xã hội chúng ta, tôi muốn cổ vũ tất cả quý đồng viện của tôi ở đây ủng hộ việc thông qua Dự luật S-219.”
Sau dân biểu Bob Dechert, dân biểu Tân Dân chủ Lysane Blanchette-Lamothe (Pierrefonds-Dollard, NDP) nói,
Dân biểu NDP Lysane Blanchette-Lamothe. Nguồn: lysaneblanchette-lamothenpd.ca
“Đầu tiên, dù không muốn nhắc lại những gì đã nói trong cuộc tranh luận này cho đến nay, nhưng tôi vẫn muốn nói rằng tôi tự hào hôm nay chúng ta có thể nói chuyện về sự đóng góp của người Canada gốc Việt. Dự luật này một lần nữa cho chúng ta một cơ hội để cảm ơn họ vì những đóng góp của họ cho cộng đồng của chúng ta trên khắp Canada.”
[…]
“Tôi cũng nhân cơ hội này để nói rằng ngày lễ kỷ niệm là có thể có vì tại một thời điểm nào đó trong lịch sử của Canada, chúng ta đã mở cửa và chúng ta quyết định, như là một quốc gia và một xã hội, để đón nhận những người đang tìm nơi nương náu sau một cơn khủng hoảng lớn. Khi cuộc chiến gây ra nhiều bi kịch của con người kết thúc, Canada đã mở cửa và nhận người vào, và nay họ là một phần không thể tách rời của cơ cấu xã hội, kinh tế và chính trị của Canada.”
Dự luật S-219 không phải là một bản án đối với chính phủ Việt Nam
Người phát biểu sau cùng trong buổi thảo luận ngày 5 tháng 2, 2015 về Dự luật S-219 là Quý ông Peter Kent, cựu bộ trưởng phụ trách Môi trường, dân biểu (Thornhill, CPC); ông nói,
Cựu Bộ trưởng Môi trường, dân biểu CPC Peter Kent . Nguồn” Macleans.ca
“Thưa Chủ tịch Hạ viện, trong vài phút còn lại của buổi tranh luận, tôi xin được nhiệt tình ủng hộ Dự luật S-219, Đạo luật Ngày Hành trình tìm Tự do.
Tôi đã làm việc tại Việt Nam trong một thời gian khá dài khi còn là nhà báo trong những thập niên 1960, 1970, 1980, và ngay cả vào những năm 1990. Tôi được đặc ân đáng ngờ là đã có mặt ở Sài Gòn vào ngày đen tối đó, 30 tháng Tư năm 1975, khi tôi được di tản khỏi căn cứ của Hoa Kỳ cùng với những người Mỹ sau cùng, những công dân của các nước thứ ba khác, và hơn 7.000 công dân Việt Nam có mặt ở đó. Tôi đã theo dõi với mối quan tâm lớn trong những năm đen tối của những trại cải tạo suốt những năm còn lại của thập niên 1970 và sau đó, và tiếp tục với một mối quan tâm lớn tới hoàn cảnh của những người buộc lòng phải để rời khỏi đất nước của họ để tìm một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác.
Tôi có thể cam đoan với những đồng viện đã bày tỏ quan tâm, quý vị dân biểu vùng Beauharnois-Salaberry và Winnipeg North, rằng dự luật này sẽ được đưa vào nghiên cứu ở ủy ban. Ủy ban sẽ nghe điều trần của nhân chứng thuộc mọi quan điểm, và tôi mong được gặp Đại sứ Việt Nam trong thời gian nghiên cứu của ủy ban sắp đến.
Tôi sẽ nói với ông Đại sứ rằng dự luật này không phải là một sự lên án đối với chính phủ [CHXHCNVN] hiện nay. Chúng tôi có mối quan hệ chặt chẽ và tốt với chính phủ hiện tại. Dự luật này mô tả lại một thời điểm đặc biệt tối tăm và hành trình tìm tự do của hàng trăm ngàn người. Trong số này, 60.000 người tị nạn đã đến Canada. Trên thực tế, Việt Nam có tự do hơn không phải nhờ chiến tranh nhưng vì những áp lực của tư bản, vì một nền kinh lế tự do, và vì ý chí của nhân dân muốn có một cuộc sống tốt hơn ở Việt Nam.
Để kết luận, ý nghĩa của việc tưởng niệm Ngày Hành hành trình tìm Tự do thực sự là ở ba phương diện. Nó sẽ đánh dấu những sự kiện bi thảm sau khi Sài Gòn sụp đổ và sự di cư của những người tị nạn Việt Nam. Nó cũng sẽ vinh danh tất cả những người Canada, những người đã vượt qua mọi thách thức để chào đón những người tị nạn đang bị chấn thương tinh thần, và giúp họ thích nghi với cuộc sống mới và tốt hơn trong một vùng đất mới và xa lạ. Sau cùng, nó sẽ tán dương những đóng góp lạ thường mà những người tị nạn Việt Nam đã thực hiện để xây dựng đất nước tuyệt vời của chúng ta.
Điều này vừa mới được chứng minh trong cuối tuần qua nhân dịp lễ Tết ở Toronto, nơi mà quý đồng viện đều biết rằng Thủ tướng Chính phủ đã phát biểu trước một đám đông hơn 10.000 người Canada gốc Việt Nam.
Tất cả người dân Canada nên biết đến những câu chuyện của những người tị nạn Việt Nam bị buộc phải rời bỏ quê hương, những nỗ lực nhân đạo lớn của người Canada đã thể hiện trên khắp mọi miền từ bờ Bắc Thái Bình Dương đến bờ biển Bắc Cực qua bờ Bắc Đại Tây Dương, và đã thắng nghịch cảnh mà hiện thân là cộng đồng năng động của người Việt Nam tại Canada ngày nay.”
Sau đó, quyền Chủ tịch Hạ viện, ông Barry Devolin, đã tuyên bố tạm ngưng buổi thảo luận về dự luật Ngày Hành tình tìm Tự do vào lúc 18g15 cùng ngày
Tranh luận về Dự luật S-219, “Ngày Hành trình tìm Tự do”
Cuộc thảo luận bắt đầu với dân biểu Mark Adler (đảng Bảo thủ Cấp tiến Canada, CPC, York Center). Ông Adler đề nghị đọc Dự luật S-219 lần thứ nhì và sau đó đưa vào nghiên cứu ở ủy ban của Hạ Viện.
Biên bản cuộc tranh luận tại Hạ viện Canada chiều ngày 5 tháng Hai, 2015
Dân biểu Mark Adler (York Centre, CPC):
Ông Adler nói, Thưa ông Chủ Tịch Hạ viện, ngày 30 tháng Tư năm 1975, chiến tranh Việt Nam kết thúc. Sài Gòn, thủ đô của miền Nam Việt Nam, rơi vào tay đoàn quân xâm lược Cộng sản phía bắc, nhưng câu chuyện không chấm dứt ở đó. 30 Tháng 4 năm 1975 là ngày bắt đầu một chương mới trong đời sống của người dân miền Nam Việt Nam.
Đó là khởi đầu của một cuộc di cư của hàng triệu người phải rời bỏ Việt Nam, mảnh đất mà, qua nhiều thế hệ, họ đã gọi là quê hương. Họ phải bỏ đi để tránh khỏi những đối xử khắc nghiệt và sự đàn áp nhân quyền của một nhà nước độc tài; bách hại dân tộc ít người, tôn giáo, chính trị; đàn áp chính trị đối với cựu quân cán chính miền Nam Việt Nam và gia đình họ; đẩy họ đến ở vùng sâu vùng xa [“vùng kinh tế mới”]; với điều kiện sống ngày càng bi đát vì thiếu lương thực, lụt lội và hạn hán. Đến năm 1979 đã có khoảng 600.000 người Việt Nam phải bỏ nước ra đi.
Trong ba năm sau đó, nhãn hiệu “thuyền nhân” đã trở thành quen thuộc với thế giới khi người Việt Nam bắt đầu tìm đường thoát khỏi quê hương trên chiếc thuyền nhỏ, đi tìm nơi tạm trú ở các nước láng giềng.
Nhiều quốc gia đã từ chối không cho họ vào đất liền. Cao ủy Ti nạn Liên Hiệp Quốc báo cáo có ít nhất 250.000 người Việt Nam bỏ mình trên biển vì chết đuối, bệnh tật, đói khát, và hải tặc tấn công, cướp bóc, hãm hiếp, và bắt cóc.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng nhân đạo này, Canada đã trả lời bằng cách mở rộng cửa của chúng ta. Giữa năm 1975 và 1976, Canada đã nhận 6.500 người tị nạn chính trị rời Việt Nam sau ngày Sài Gòn sụp đổ. Trong tháng 10 năm 1976, Canada nhận 180 thuyền nhân. Trong tháng 8 năm 1977, đã cam kết nhận thêm 450 người. Năm 1978, Chính phủ đã đồng ý đón nhận 50 gia đình thuyền nhân mỗi tháng. Đến năm 1980, khoảng 120.000 người tị nạn Việt Nam đã được Canada rộng mở vòng tay chào đón. Ngoài ra, tiếp tục bày tỏ mối quan tâm với thuyền nhân, Canada khuyến khích các nước khác cùng mở cửa đón thuyền nhân.
Tới năm 1986, Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc cảm kích vai trò của Canada trong việc đón nhận nhiều người tị nạn từ miền Nam Việt Nam vì thế nhân dân Canada đã được tặng thưởng Huân chương Nansen vì những “đóng góp lớn và bền vững giúp người tị nạn”.
Huân chương Nansen. Nguồn: UNHCR.
Huy chương này trong khung cảnh giúp người tị nạn tương đương với giải thưởng Nobel, và đánh dấu lần duy nhất trong lịch sử thế giới mà cả một quốc gia đã nhận vinh dự như thế. Đó là lý do tại sao tôi rất tự hào, cùng với Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, làm người cùng đỡ đầu dự luật S-219, “Đạo luật Ngày Hành trình tìm Tự do”, với ba mục đích.
Đầu tiên, nó sẽ xác định 30 tháng 4 là một ngày để tưởng niệm cuộc di cư của người tị nạn [cộng sản] từ miền Nam Việt Nam.
Thứ hai, nó vinh danh vai trò nhân đạo phi thường của chính phủ cũng như những gia đình bảo trợ, của những cơ quan thiện nguyện, các cộng đồng, các hội đường và nhà thờ, và các nhóm tôn giáo khác nhau đã, một cách rất nồng nhiệt, cùng bảo lãnh rất nhiều người Việt Nam vào sống cùng với những gia đình người Canada.
Thứ ba, nó cũng cần lưu ý rằng thời kỳ này trong lịch sử Canada là một giai đoạn mà thế hệ trẻ Canada hôm nay nhiều người không biết đến. Vì lý do đó, ngày 30 tháng Tư còn có thể xem là một ngày để suy ngẫm và giáo dục. Tất cả người dân Canada nên biết đến câu chuyện của những người tị nạn Việt Nam bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương, những nỗ lực nhân đạo lớn của người dân Canada để đón nhận họ, và sự thành công bất chấp nghịch cảnh mà cộng đồng năng động người Việt tại Canada là tiêu biểu.
Canada là một trong những nước đầu tiên mở rộng vòng tay chào đón những người tị nạn Việt Nam. Khi người dân Việt Nam đang cần được giúp đỡ, người Canada từ tất cả mọi tầng lớp xã hội đã đáp lời kêu gọi mà không do dự và đã mở cửa ngôi nhà nhà và mở rộng con tim để đón nhận hơn 60.000 người tị nạn Đông Dương đang rất cần một nơi để dựng lại cuộc đời.
Đây là con số người tị nạn tính trên đầu người cao nhất so với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới trong thời gian này. Vai trò của Canada trong việc mở cửa đón nhận rất nhiều người tị nạn Việt Nam là một ví dụ về những điểm ưu việt của Canada. Đó là một minh chứng xác thực về giá trị Canada.
Sau đây là đại cương chương trình ấy đã hoạt động thế nào.
Chính phủ liên bang đã mở một chương trình tư nhân bảo lãnh trong đó các tổ chức như nhà thờ và những nhóm gồm ít nhất năm công dân đã trưởng thành sẽ bảo lãnh cho gia đình người tị nạn và chăm sóc họ trong một năm.
Cứ mỗi một người tị nạn được tư nhân bảo trợ, chính phủ sẽ đón nhận và chăm lo cho một người tị nạn khác. Canada là quốc gia tiên phong trong chương trình tư nhân bảo trợ người tị nạn, tạo điều kiện cho đất nước của chúng ta đón nhận một số lượng lớn người tị nạn đồng thời cũng làm giảm được chi phí quốc gia và là mẫu mực cho thế giới.
Nếu không có những nỗ lực đầy nhân đạo của hàng ngàn người dân Canada, và sự lãnh đạo, hỗ trợ và hợp tác của chính phủ Canada, cũng như các cơ quan tị nạn, các tổ chức phi chính phủ, và các nhóm tôn giáo, thì sự an cư cho một số lượng lớn người tị nạn trong trường hợp khẩn cấp và khó khăn như vậy sẽ đơn giản là không thể nào thực hiện được.
Trong Kinh Thánh đã viết, cứu một mạng người là cứu cả một thế hệ. Hôm nay có khoảng 300.000 người gốc Việt sinh sống tại Canada. Hơn 100.000 người hiện sinh sống ở Toronto và vùng phụ cận.
39 năm qua, mỗi ngày 30 tháng Tư, người Canada gốc Việt đã tập hợp để ghi nhớ một sự khởi đầu mới và để cảm ơn Canada. Trong năm 2015, cộng đồng người Canada gốc Việt sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm định cư thuyền nhân đến Canada.
Dự luật này là biểu tượng của một truyền thống lâu đời của Canada như một ngọn hải đăng của tự do và dân chủ, một quốc gia đã hào hiệp đón nhận những người tị nạn, những người vô tội buộc lòng phải phải rời bỏ quê hương.
Một trong những điểm đáng chú ý hơn nữa trong câu chuyện này là có nhiều thuyền nhân đến Canada ngày nay đã chính họ trở thành những người bảo lãnh những người tị nạn. Họ đã hợp tác với Chính phủ Canada, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Chính phủ của chúng ta, để đưa những người tị nạn Việt Nam sau cùng, những người sống lây lất, không có tư cách pháp nhân, ở khu vực Đông Nam Á, ở những nơi như Thái Lan và Philippines, trong gần 40 năm qua. Thật là một di sản đáng tự hào, và một phương cách tuyệt vời để đánh dấu cuộc hành trình tìm tự do của họ: bằng cách giúp đỡ những người [tị nạn] khác.
Đây là một dự luật quan trọng, và hôm nay tôi xin với tất cả các thành viên [ở hạ viện] ủng hộ và đưa nó về phía trước. Sự công nhận của quốc gia ngày 30 tháng Tư này sẽ là một niềm tự hào cho những người Canada gốc Việt và cho tất cả nhân dân Canada; nó cũng làm nổi bật tinh thần Canada hào phóng và tinh thần quốc gia tôn trọng tự do. Đất nước chúng ta là một quốc gia do những người nhập cư xây dựng, và các cộng đồng của chúng ta giàu lên nhờ những mảng di sản văn hóa sinh động trong đó.
Canada sẽ không bao giờ trở lại chính sách tị nạn nhục nhã và hèn hạ của thời trước và trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai, một giai đoạn mà “không [nhận] người nào đã là quá nhiều” là chuẩn mực của quá khứ đó. Sự hào hiệp và tình nồng ấm của Canada đón nhận người nhập cư và người tị nạn là một trong những truyền thống thiêng liêng nhất của dân tộc ta. Những cam kết lịch sử và tiếp tục của chúng ta với tính đa nguyên là một cam kết mà chúng ta, trong trách nhiệm của một chính phủ, phải cố gắng công nhận và làm rạng danh bất cứ khi nào có thể.
Dự luật này cũng sẽ cho một cơ hội tổng hợp, một nơi mà tất cả chúng ta hợp nhất về mặt giá trị, bất kể chủng tộc, tôn giáo, màu da, hay tín ngưỡng. Nó còn rất quan trọng để tất cả dân Canada nhớ đến và suy ngẫm về việc lịch sử đất nước của chúng ta đã đóng góp cho một nền văn hóa đa nguyên, đa dạng, và đón nhận như thế nào.
Dự luật này cũng sẽ chúng ta một cơ hội tuyệt vời để suy nghĩ về những ưu điểm và sự đa dạng mà cộng đồng người Việt Nam đã mang lại cho đất nước và để cảm ơn họ đã góp phần vào nền văn hóa đa nguyên của chúng ta. Tất cả chúng ta có thể học được đôi điều từ những người tị nạn, những người sẵn sàng mạo hiểm hy sinh tất cả để được sống trong tự do, vì một cuộc sống không có tự do thì không còn gì là cuộc sống nữa.
Tôi là một người Canada thế hệ thứ nhất, và dự luật này đã khiến tôi suy tư về kinh nghiệm của riêng mình, là con của một người sống sót sau Holocaust; cha tôi đến Canada không có gì hơn một mảnh áo trên lưng, với một hàng số xăm trên cánh tay, nhưng quan trọng nhất là niềm hy vọng trong trái tim mình. Đối với rất nhiều người tị nạn đến Canada, giống như những người sống sót sau Holocaust, những thuyền nhân Việt Nam, các Kitô hữu bị bách hại và người Yazidis ở miền bắc Iraq và Syria, và rất nhiều người khác, mỗi người trong số họ đã có quyền quay lưng lại với nhân loại, nhưng họ không làm như vậy. Họ đã đến Canada để tìm hy vọng, hy vọng cho chính họ, đúng thế, nhưng quan trọng hơn, hy vọng cho con cái của họ để chúng không bị buộc phải sống dưới ách áp bức, khủng bố. Họ đã đến Canada vì Canada là một mốc hiệu ánh sáng của thế giới, một quốc gia đứng trong thế mạnh, hãnh diện, tôn trọng những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, và chế độ pháp trị.
“Đạo luật Ngày Hành trình tìm Tự do” sẽ chúng ta một cơ hội để suy ngẫm về cam kết của chúng ta với những gì tốt nhất của các giá trị Canada. Nó sẽ cho chúng ta một lý do khác để giới thiệu Canada là nước tốt nhất trên thế giới để gọi là nhà.
Hôm nay tôi xin tất cả quý vị đồng viện ủng hộ thông qua dự luật S-219 và giúp chúng ta tuyên bố 30 tháng Tư là ngày Hành trình tìm Tự do của đất nước Canada tuyệt vời này.
Dân biểu Anne Minh-Thu Quach (Beauharnois—Salaberry, đảng Tân Dân chủ, NDP):
Thưa Chủ tịch Hạ viện, tôi xin cảm ơn đồng nghiệp bên đối diện đã có một bài phát biểu rất cảm động.
Tôi chỉ muốn hỏi một câu hỏi để chúng ta thực sự có thể nói chuyện về hòa giải và con đường tiến tới dân chủ và tự do ngôn luận. Tôi muốn biết quý đồng viện sẽ tranh đấu để chính phủ của ông cho tất cả mọi người Việt có cơ hội để bày tỏ ý kiến của mình trước ủy ban hay không?
Chúng ta biết rằng tại ủy ban ở Thượng viện, chỉ có những người ủng hộ dự luật này được điều trần. Tôi hy vọng rằng trong tinh thần đối thoại chân thật, cởi mở và thẳng thắn, ủy ban ở Hạ viện sẽ lắng nghe người Việt Nam từ tất cả mọi tầng lớp xã hội để cuối cùng chúng ta có thể nói chuyện về hòa giải và đi tới hướng đến sự tôn trọng nhân quyền.
Dân biểu Mark Adler:
Thưa Chủ tịch Hạ viện, dự luật này không phải là về vấn đề hòa giải. Dự luật này, đầu tiên, là để ghi nhớ và thứ đến là để tuyên dương tinh thần tuyệt vời của Canada, để biết chúng ta là ai, và vinh danh giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, và thể chế pháp trị của người Canada. Chúng ta đang ở đây tại Hạ viện ngày hôm nay là một ví dụ về điều này. Chúng ta đang tranh luận về dự luật ở đây trong Hạ viện hôm nay.
Tôi hiểu những gì quý đồng viện vừa đề cập đến. Tại ủy ban ở Thượng viện một người đại diện – tôi tin rằng đó là Đại sứ Việt Nam – đã đệ trình một lá thư thay mặt của chế độ cộng sản Việt Nam để bày tỏ quan điểm của họ về “Đạo luật Ngày Hành trình tìm Tự do”, và theo tôi hiểu thì họ kịch liệt phản đối dự luật này. Ông [Đại sứ] đã gửi nhận định của ông bằng văn bản. Đáng tiếc thay, những nhận định đó không phải bằng tiếng Pháp và chúng đã không được dịch kịp thời hạn để được đưa vào hồ sơ.
Đây là một dự luật quan trọng, và tôi thực sự hy vọng rằng, trong tinh thần và giá trị Canada của chúng ta, tất cả quý đồng viện sẽ sẽ ủng hộ nó.
Dân biểu Kevin Lamoureux (Winnipeg North, đảng Tự do, Lib.):
Thưa Chủ tịch Hạ viện, câu hỏi của tôi dựa trên phần trả lời cho câu hỏi trước đó liên quan đến ông Đại sứ Việt Nam. Tôi nghĩ rằng có sự ủng hộ để dự luật này được đưa tới ủy ban nghiên cứu. Quý đồng viện có ở vị trí để bảo đảm cho những người những người có thể đang lắng nghe hoặc quan tâm muốn điều trần tại Ủy ban về về dự luật này rằng sẽ có sự đại diện công bằng trong giai đoạn nghiên cứu tại ủy ban để tất cả những ai muốn điều trần đều có cơ hội bày tỏ không?
Dân biểu Mark Adler:
Thưa Chủ tịch Hạ viện, Tôi đã đọc biên bản của cuộc tranh luận tại Thượng viện, và thấy có bốn phiếu của Đảng Tự do chống lại dự luật, và 14 phiếu trắng. Tôi hơi bối rối rằng có phải đảng Tự do quan tâm muốn nghe quan điểm của chính quyền cộng sản Việt Nam, dù rằng họ [đảng Tự do] dường như đã quyết định sẽ không ủng hộ dự luật này. Có lẽ tôi không nên ngạc nhiên. Tôi nghĩ rằng đây là sự gây bất ngờ, ngay cả cho các dân biểu đảng Tân Dân chủ [NDP] rằng đảng Tự do quan tâm muốn nghe buổi điều trần đó.
Tôi sẽ bị sốc nếu đảng NDP chống lại một dự luật nhằm xiển dương những giá trị lớn của Canada của chúng ta về tự do và dân chủ, nhưng, mặt khác, hãy nhớ rằng những người trong lúc họ khó khăn đã được dân Canada giúp đỡ. Lòng hào hiệp của dân Canada và tinh thần trong sáng của Canada tán dương giá trị của đất nước này đã đón nhận rất nhiều người tị nạn đến đây và họ đã gầy dựng lại những cuộc sống tuyệt vời cho chính họ. Chúng ta, như một quốc gia, được hưởng lợi vì sự hiện diện của họ.
Dân biểu Anne Minh-Thu Quach:
Thưa Chủ tịch Hạ viện, tôi rất hân hoan đứng đây tại Hạ viện ngày hôm nay để nói chuyện về Dự luật S-219, một dự luật rất quan trọng, được đệ trình tại Thượng viện và nhằm lập ra một ngày quốc lễ kỷ niệm của cuộc di cư của người tị nạn Việt Nam và và sự kiện họ được đón nhận ở Canada.
Đôi khi chúng ta quên mất ý nghĩa thực sự của cuộc sống ở đây trong một xã hội dân chủ nơi mà người công dân có thể lựa chọn đại biểu Quốc hội của họ, và cả hai, người dân và người được dân cử, đều có thể an toàn thực thi quyền tự do ngôn luận. Hầu hết dân số trên thế giới không thể thực thi được cái quyền cơ bản đó.
Nếu hôm nay tôi có thể đứng đây là một dân biểu Quốc hội và nói chuyện tại Hạ viện là nhờ bố mẹ tôi đã chạy trốn khỏi Việt Nam và đã tìm được nơi nương náu ở đây, tại Canada, để bắt đầu xây dựng gia đình, sống trong thanh bình, và làm việc nuôi thân.
Bản thân tôi, Anne Minh-Thu Quach, sinh ra ở và lớn lên ở Canada, và cũng nhờ sự dũng cảm của cha mẹ tôi và sự đón nhận của Canada nên hôm nay tôi mới có thể tham gia vào đời sống dân chủ của đất nước này.
Tôi muốn dành một vài phút để kể lại chuyện bố mẹ tôi phải bỏ chạy khỏi Việt Nam và đến Canada như thế nào. Năm 1979, sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cha mẹ tôi đã quyết định rời bỏ đất nước của mình vì những điều kiện sống khủng khiếp do một chế độ chính trị mới áp đặt và với hy vọng tìm được một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác. Họ không còn có thể chịu đựng nổi những hạn chế, bạo lực và bất công đã xảy ra sau chiến tranh.
Họ chụp ngay lấy cơ hội đầu tiên để trốn đi vào giữa đêm khuya, trong bí mật, với hai người anh của tôi, mới được một tuổi và ba tuổi vào thời điểm đó. Họ tìm đường ra môt một bến cảng và trả cho những kẻ buôn người bằng tất cả phần đồ đạc cuối cùng của họ, tất cả những gì bố mẹ tôi đã mang theo. Họ lên một chiếc thuyền, định hướng chỉ bằng một chiếc la bàn, nói cách khác, họ đi bất cứ nơi nào, bất cứ nơi nào người thuyền trưởng đưa họ đi, và cũng không biết chắc người lái thuyền sẽ mang họ tới được một bờ bến an toàn hay không.
Họ sống tại một trại tị nạn ở Indonesia suốt 18 tháng, trước khi Hội Chữ thập đỏ đến đón họ đi. Sau đó, họ đến Canada. Họ không có căn cước; họ không có đồ đạc. Tay trắng, bố mẹ tôi chỉ có mạng sống của họ và của hai anh của tôi. Canada đã cho cấp họ giấy tờ và đón nhận họ như những người tị nạn với cả tấm lòng quảng đại.
[Cả Quốc hội vỗ bàn ủng hộ, “Nghe, nghe!”]
[Dân biểu Anne Minh-Thu Quach nói tiếp,] Vâng, thực sự là thế.
Khi đến Canada, cha mẹ tôi đã phải học tất cả mọi thứ: làm thế nào để sống còn trong mùa đông, học nói tiếng Pháp, học lái xe, đi tìm việc làm, nấu thực phẩm theo cách của Canada. Trong một thời gian ngắn, họ phải học cách sống trong quốc gia mới của mình.
Cũng nhờ có những người như Captain Pierre Pellerin, Ginette Malenfant, Nicole Leduc và Estelle, bà nay đã qua đời, đã đón tiếp cha mẹ tôi, nhưng cũng còn có những người khác, kể cả Fred và Bonnie Cappuccino và rất nhiều người Canada đã mở cửa cho gia đình tôi và đón nhận hàng ngàn người Việt Nam như thể chúng tôi là một phần của gia đình riêng của chính họ. Từ thời điểm đó, nhiều người tị nạn Việt Nam đã có thể bắt đầu hội nhập vào đời sống Canada và đóng góp cho Canada. Xin chân thành cám ơn, thay mặt cho mọi người Việt Nam.
Tuy nhiên, giống như hơn 1,5 triệu người tị nạn, bố mẹ tôi là thuyền nhân. Canada đón nhận 137.000 người tị nạn Việt Nam vào lúc đó. Chính phủ liên bang cũng đã thiết lập một chương trình tư nhân bảo lãnh cho phép các cơ quan và công dân Canada đón nhận một gia đình của những người tị nạn, chu cấp và hỗ trợ cho họ trong một năm. Cứ mỗi người tị nạn được tư nhân bảo trợ thì chính phủ sẽ bảo lãnh cho một người tị nạn khác. Cả một phong trào đoàn kết đã thành hình.
Tượng đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam tại Ottawa. Nguồn: www.heroines.ca
Ở đây, tại Ottawa, ở góc đường Preston và Somerset, có một tượng đài kỷ niệm thuyền nhân. Marion Dewar, thị trưởng thành phố Ottawa lúc đó và là mẹ của bạn đồng viện của chúng tôi từ Ottawa Centre [dân biểu NDP, Paul Dewer], làm việc hết mình để đón nhận hàng ngàn người tị nạn Việt Nam, nhiều người đến nỗi khu phố Tàu ở đây tại Ottawa, trong thực tế, phần lớn là một xóm Việt Nam, nơi có những cửa hàng bán phở nổi tiếng, ăn vào thật ấm và dễ chịu, đặc biệt là vào những ngày trời lạnh như hôm nay.
Chiến tranh Việt Nam là kết quả của 50 năm chiến tranh lạnh đã chia đôi thế giới. Vì những lý do ý thức hệ, đã có chiến tranh tại nhiều nước, gia đình đã phân tán, đàn ông và phụ nữ đã bị sát hại. Hôm nay, chúng ta không còn sống trong thế giới lưỡng cực mà ở đó tất cả mọi người đã cố gắng áp đặt sự thật của họ lên người khác. Thời điểm hôm nay đã chín muồi để chúng ta bắt đầu một cuộc đối thoại thực sự.
Trước đây, tôi đã nói về sự cởi mở và đối thoại, vì đây là những gì mà chúng ta thực sự cần có. Cộng đồng người Việt Nam, tại Canada và trên toàn thế giới, đang phân hóa vì những khác biệt về kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Một bàn tròn phải được đặt ra, cho mọi người đều có quyền bày tỏ quan điểm của mình. Đây là cách chúng ta sẽ tiến bộ và để bảo đảm rằng thế giới sẽ thay đổi.
Tôi nghĩ rằng Dự luật S-219 cho chúng ta một cơ hội thật tốt để có cuộc đối thoại này, xét rằng nó còn góp thêm một khía cạnh tích cực vào việc tưởng niệm thông thường bằng cách nhấn mạnh đến sự đón nhận người tị nạn của Canada.
Trong sự tôn trọng đối với người tị nạn và để công nhận việc nhân dân Canada đã mở vòng tay đón nhận người tị nạn Việt Nam bắt đầu từ năm 1975, tôi nghĩ rằng nó xứng đáng được một ủy ban của quốc hội nghiên cứu. Tất cả tùy ở chính chúng ta – lớp hậu duệ của những người tị nạn, những người lưu vong và di dân – cũng như tất cả những người dân Canada khác, những người cởi mở và quan tâm đến cuộc đối thoại này, sẽ giúp khởi đầu cuộc thảo luận và tranh luận về việc tưởng niệm người [tị nạn] Việt Nam.
Tôi đã may mắn được đi Việt Nam để thăm hỏi gia đình của tôi và tìm hiểu vùng đất của tổ tiên tôi. Đó là một đất nước tuyệt vời, nơi của những con người rất đặc biệt và cởi mở. Tôi vẫn còn có nhiều bà con họ hàng sống ở đó, và tôi muốn họ và tất cả mọi người Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam có cơ hội như tôi đang có, để họ có thể sống trong hòa bình, an ninh và hưởng đời sống dân chủ và các quyền con người cơ bản và phổ quát như tôi đang có.
Thật không may, đó chưa phải là thực tế cho tất cả mọi người ở Việt Nam. Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia vào bảy công ước quốc tế về quyền con người. Việt Nam còn là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Quyền con người cũng được xác định trong bản Hiến pháp Việt Nam. Tuy nhiên, luật sư, nhà báo, người viết blog và các công dân bình thường vẫn tiếp tục bị bắt giữ, xét xử và bỏ tù chỉ vì bày tỏ ý kiến riêng của họ.
Hôm nay, chúng ta không phải sợ hãi khi nói sự thật. Mỗi con người có quyền được sống, quyền tự do và có cơ hội bình đẳng. Vì vậy, tôi xin với tay đến tất cả người Việt Nam, và tất cả những người Canada, những người muốn thực hiện cuộc đối thoại này với tôi và với các dân biểu.
Dự luật S-219 cho chúng ta một cơ hội để trao đổi, vì các vết thương đã thưc sự chưa lành. Chúng ta phải nắm lấy cơ hội này để cùng ngồi lại quanh bàn, như tôi đã nói, là người Việt Nam từ tất cả các tầng lớp xã hội, cho tiến trình đối thoại và hàn gắn có thể bắt đầu và sau cùng thì chúng ta mới có thể nhìn về tương lai.
Như quý đồng viện bên đối diện cho biết, vị Đại sứ của Việt Nam đã không thể điều trần ở Thượng viện. Tôi đã nhận được rất nhiều email từ những người Việt Nam khác sống khác ở Canada, những người đã muốn tham gia vào cuộc tranh luận này nhưng đã không thể tham gia vào cuộc tranh luận được tổ chức tại Thượng viện.
Dự luật này cần qua từng bước một trong Quốc hội của Canada, và tôi muốn nó phải được cứu xét ở ủy ban và ủy ban cần xét đến tất cả mọi quan điểm khi nghiên cứu. Thật không may, như đã nói, ủy ban [ở Thượng viện] đã không nghe được tất cả các nhân chứng, nhưng tôi tin rằng tại đây, Hạ viện Quốc hội Canada, có thể làm tốt hơn và có thể lắng nghe tất cả mọi người ở giai đoạn thứ hai. Không chỉ là có thể, tôi tin rằng nó [ủy ban nghiên cứu] phải nghe [từ nhiều phía].
Để chứng minh giá trị của chúng ta trong tinh thần cởi mở, dân chủ, sự cảm thông và lòng hào hiệp như đã được thực hiện, chúng ta nên cho phép cuộc tranh luận được tiếp tục. Xin hãy không nghi ngờ gì về điểm này: Tôi đang đặt câu hỏi, vì tôi tin rằng tiến trình này có thể được cải tiến. Trên thực tế tôi đồng ý với dự luật này, và rất quan trọng để cuộc tranh luận này vẫn được tiếp tục.
Một ghi nhận có phần tích cực hơn, vì năm mới của châu Á, năm mới âm lịch, sẽ rơi vào ngày 18 tháng Hai, tôi xin chúc tất cả mọi người một cái Tết vui vẻ. “Tết’ là năm mới trong tiếng Việt. Với tất cả mọi người Việt Nam ở khắp mọi nơi ở Canada và những nơi khác,
[Dân biểu Anne Minh-Thu Quách nói bằng tiếng Việt]
Chúc mừng năm mới!
Dân biểu Kevin Lamoureux:
Thưa Chủ tịch Hạ viện, tôi thực sự trân trọng những ý kiến mà quý đồng viện vừa đưa vào biên bản.
Bà đã làm một công việc phi thường khi trình bày một sự việc mà tôi tin có thể thấy trên khắp đất nước của chúng ta, ở những gia đình người tị nạn đã đến Canada và đã thành công trong cuộc sống. Tôi đoan chắc rằng cha mẹ bà và cộng đồng của bàô sẽ đặc biệt tự hào về những điều bà vừa phát biểu.
Đối với quý đồng viện đã cùng đỡ đầu cho Dự luật S-219 này, tôi phải nói rằng tôi hơi thất vọng vì cách ông đã chọn để trả lời câu hỏi [của tôi].
Dự luật S-219 nếu được đưa vào ủy ban nghiên cứu thì đó là điều tốt. Tôi ủng hộ việc đưa Dự luật S-219 vào ủy ban. Tôi không đánh giá cao những lời nói bóng gió cho rằng Đảng Tự do không ủng hộ việc dự luật S-219 được đưa vào ủy ban nghiên cứ. Đó là một việc làm rất có giá trị.
Cũng giống như quý đồng viện vừa phát biểu, tôi đặt vấn đề về tầm quan trọng của việc điều trần ở ủy ban vì nó là vấn đề đã được đề cập đến. Tôi nghĩ rằng đó là việc đúng đắn và tôi đã hơi thất vọng với hàm ý của quý đồng viện [bên đối diện] cho là tôi có thể không ủng hỗ trợ dự luật này.
Tôi ủng hộ dự luật này vì một số lý do mà tôi muốn nêu lên ở đây. Tuy nhiên, trước khi làm việc đó, tôi muốn thưa rằng chỉ mới mùa hè vừa qua, tôi đã du lịch đến Việt Nam. Tôi đã có cơ hội đi thăm các nước ở châu Á, và đó là một kinh nghiệm rất thú vị.
Tôi đi với con gái tôi. Một trong những điểm mà cô ấy thực cảm kích là số lượng xe tay ga, vì cô ấy thích xe máy. Nếu có cơ hội đi du lịch trong những khu vực có mật độ cao, quý vị sẽ biết được làm sao người ta di chuyển trong một khu vực rất nhỏ.
Cá nhân tôi rất thích cảnh tương tác ở chợ. Tôi đã có cơ hội đến thăm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tôi xin kể về một cửa hàng nến giúp người khuyết tật có công việc làm, sản xuất những cây nến 100% bằng sáp ong. Đồng thời, cũng có nhà máy sản xuất lớn, đặc biệt là một công ty làm bao bì. Đó là một đất nước xinh đẹp.
Có lẽ tôi có thể đề cập đến một số thông điệp chính mà tôi nghĩ rằng chúng tôi muốn nhấn mạnh.
Chung cuộc thì dự luật đề nghị chọn ngày này [30 tháng Tư] để công nhận cuộc hành trình, cuộc đấu tranh, sự hy sinh, và sự sống còn của thuyền nhân Việt Nam và ghi nhớ tầm quan trọng lịch sử của cuộc hành trình của họ đến Canada.
Một ngày như vậy sẽ là một cơ hội để nâng cao nhận thức và để làm tăng sự hiểu biết về hoàn cảnh của những người tị nạn trên thế giới và thông cảm được sức chịu đựng của những người tị nạn.
Điều quan trọng cần biết là đa số người tị nạn đã không thể giao tiếp bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, nhưng lúc đó cũng là thời điểm có nhiều thách thức về mặt kinh tế. Hoàn cảnh đó đã làm phức tạp hơn cho đời sống của người tị nạn đến Canada.
Đây là ngày để tán dương những gia đình người Canada, các tổ chức từ thiện, các nhóm tôn giáo, và các tổ chức phi chính phủ đã bảo lãnh khoảng 34.000 người tị nạn Việt Nam đến Canada và giúp họ tái định cư và hội nhập trong khỏang năm 1979 -1980.
Đây cũng là ngày cho mọi người cơ hội để tuyên dương những đóng góp liên tục của người Canada gốc Việt trong tất cả các mọi mặt của đời sống và xã hội Canada, kể cả y học, kỹ thuật, kinh doanh, khoa học, luật pháp, học viện, nghệ thuật, truyền thông, dịch vụ dân sự và cộng đồng, và, như đã được chứng minh, cả ở lãnh vực chính trị.
Những đóng góp vừa kể và nhiều hơn nữa cho cộng đồng của chúng ta là những cống hiến to lớn của cộng đồng người Việt Nam, mà toàn thể xã hội Canada đã yêu mến, nuôi dưỡng, và nay đã trở thành tơ sợi trong mảnh lụa đa văn hóa của chúng ta.
Khi tôi lần đầu tiên được bầu làm dân biểu, tôi đã có cơ hội giữ nhiệm vụ phê bình phụ trách đa văn hóa ở tỉnh bang Manitoba. Đó thật là một kinh nghiệm quý báu. Một trong những đặc ân của tôi là đã được đến thăm “trung tâm Sài Gòn”, nằm trong Giữa thành phố Winnipeg. Đó là một khu nhà ở và một người Việt Nam ở đó, ông Trần Ba, người mà tôi đã trở nên rất gần gũi trong nhiều năm qua, đã làm một công việc phi thường trong việc chỉ dẫn cho không chỉ riêng cá nhân như tôi, mà còn cho nhiều người khác về những gì đã xảy ra ở Việt Nam. Chúng tôi cũng rất tự hào ở Winnipeg biết rằng trong hầu hết tất cả các trung tâm lớn hiện nay và ở mọi miền của đất nước, chúng ta thấy một di sản phong phú, vì những đóng góp của người Việt Nam trong suốt vài thập kỷ vừa qua.
Tôi vẫn nhớ, đi từ trung tâm Sài Gòn, đó là một khu nhà ở đẹp, đến một tượng đài. Cũng như quý đồng viện vừa kể đến một một tượng đài ở Ottawa. Có một đài tưởng niệm bên đường đối diện trường Đại học Winnipeg làm nổi bật một phần rất quan trọng trong lịch sử của Canada.
Một tuyên bố mà vị lãnh đạo của tôi thường đề cập đến là sức mạnh lớn nhất của Canada là sự đa nguyên của chúng ta. Nó, rốt cuộc đã cho chúng ta có được tiềm năng lớn nhất [để xây dựng] tương lai của chúng ta. Chúng ta cần phải rất tự hào về một quốc gia tương đối trẻ của mình. Tôi đã có cơ hội để nói về Folklorama, mà người dân Winnipeg và dân chúng từ khắp nơi trên thế giới đã tham gia. Qua 35 năm, chúng tôi đã nhìn thấy cộng đồng người Việt trực tiếp tham gia vào đủ loại gian hàng khác nhau và các cùng chia sẻ văn hóa và di sản.
Tôi đã cảm kích được việc này kể từ khi tôi được bầu làm dân biểu vào năm 1988. Trong 20 năm đầu tiên của cuộc đời một người dân cử, mỗi ngày tôi sẽ lái xe ngang Manor Sài Gòn, một chung cư tám tầng xinh đẹp. Nó đã làm cuộc sống của tôi thêm phong phú.
Còn một số điểm khác tôi xin nhanh chóng đề cập đến. Công nhận Ngày Hành trình tìm Tự do, với chúng ta là việc quan trọng, nó đánh dấu một ngày trọng đại đối với lịch sử chung của cộng đồng người Việt Nam trên khắp thế giới. Nó ghi nhận sự kiện Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, sự chiếm lãnh miền Nam Việt Nam của bắc quân, và việc thành lập chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, đồng thời là điểm bắt đầu của cuộc di cư hàng loạt của hàng triệu người dân Việt Nam rời bỏ quê hương của họ.
Đại đa số những người Việt Nam đến Canada vào ngày 1 tháng Giêng năm 1975 là người tị nạn; Canada lúc đó đã có khoảng 1.500 người gốc Việt sinh sống, phần lớn ở Quebec. Sau cuộc khủng hoảng thuyền nhân giữa năm những 1979 và 1982, có khỏang 69.000 người đã đến tị nạn tại Canada. Nhóm người tuyệt vời này cuối cùng đã định cư ở tất cả mọi miền đất nước và họ đã làm phong phú thêm cho đời sống của tất cả người dân Canada. Tôi mong muốn được thấy dự luật này cuối cùng sẽ được đưa vào nghiên cứu ở ủy ban.
Dân biểu Bob Dechert (Thư ký Quốc hội cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp, CPC):
Thưa Chủ tịch Hạ viện, tôi rất vinh dự được nói chuyện hôm nay để ủng hộ Dự luật S-219. Đặc biệt, tôi muốn cảm ơn Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, Thượng nghị sĩ Canada gốc Việt đầu tiên được bổ nhiệm vào Thượng viện qua đề nghị của chính phủ của chúng tôi. Ông đã làm việc đại diện cộng đồng người Việt khắp Canada rất tốt.
Tôi cũng muốn cảm ơn quý đồng viện, dân biểu đại diện vùng York Center, đã đỡ đầu cho dự luật này tại Hạ viện, và với bài phát biểu rất hùng hồn của ông vài phút trước đây. Ông là một người, qua lịch sử gia đình của chính mình, đã thấu hiểu nỗi đau, nghịch cảnh và cuộc đấu tranh để đến được Canada. Ông đề cập đến cha của ông một người sống sót sau Holocaust, là một nạn nhân của Tiến sĩ Mengele. Chỉ mới hơn một tuần trước đây, vào dịp kỷ niệm 70 năm giải phóng trại tập trung Auschwitz Birkenau, ông đã nói về cuộc đấu tranh của cha ông tại đó và hành trình của cha ông đến Canada.
Đối với tôi, dự luật này kể lại câu chuyện của cộng đồng người Canada gốc Việt và cuộc đấu tranh của họ để tìm đến Canada, nhưng nó cũng là một câu chuyện mà chúng tôi đã nghe hơn một lần, được lặp đi lặp lại trong suốt lịch sử Canada. Đó là chuyện của Canada. Đó là câu chuyện của tất cả chúng ta. Rất nhiều người dân Canada đã đến đây từ những nơi bị chiến tranh tàn phá, từ những nghịch cảnh và áp bức vô cùng, và đã tranh đấu vượt khó khăn ở những tình cảnh vô cùng để đến được đất nước này. Họ đã tìm được một nơi nương náu và tìm thấy tự do ở Canada.
Đây là một đất nước mà tất cả chúng ta yêu quý. Tất cả người dân Canada, bất kể nguồn gốc, có bổn phận để tìm hiểu những câu chuyện thế này và để hiểu những câu chuyện này đã đóng góp cho đất nước tuyệt vời của chúng ta như thế nào.
Tôi rất cảm kích có được cơ hội để lên tiếng ủng hộ dự luật quan trọng này. Như tôi đã đề cập, nó công nhận có những người đã thiệt mạng và những đau khổ mà họ đã phải đã trải qua trong cuộc di cư của người Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, ngày mà Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản. Đó là một cuộc chiến, như chúng ta đều biết, hoành hành trong hơn 10 năm. Một cuộc chiến đẫm máu và bạo lực, và cuộc sống của người dân đã bị xé nát. Nó đã làm mất đi quá nhiều sinh linh vô tội.
Đó không phải là một ngày kỷ niệm hạnh phúc, nhưng đó là một ngày mà chúng ta phải nhớ. Chúng ta phải nhớ những sự kiện lịch sử và cần biết những sự kiện đó đã ảnh hưởng thế nào đến mọi người trên khắp thế giới, đặc biệt là những người ở Canada.
Canada đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ hàng chục ngàn người tị nạn sau khi Sài Gòn sụp đổ, theo Ủy ban Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, có hơn 1,5 triệu người Việt Nam bị buộc phải trốn khỏi quê hương của họ dưới sự đe dọa của một cuộc sống bi đát, và một điều cần được lưu ý, là sự vi phạm nhân quyền tràn lan ở đó.
Trong thảm họa nhân đạo ngay sau đó [sự kiện thuyền nhân], người dân Canada đã hợp lực làm bất cứ điều gì chúng ta có thể giúp được. Một thời khắc quan trọng đã đến vào tháng Bảy năm 1979, chính phủ Bảo thủ lúc đó, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Joe Clark và nội các của ông, theo đề nghị của Bộ trưởng Nhập cư Ron Atkey lúc đó, đã nhận thấy hoàn cảnh của những người Việt Nam tị nạn này và đồng ý đón nhận 50.000 người tị nạn Việt Nam trong năm sau. Đó là một con số rất đáng kể Canada đã đón nhận trong một năm. Bộ trưởng Ron Atkey là một người bạn của tôi, người tôi đã biết trong hơn 30 năm. Ông là một luật sư rất tốt ở vùng Toronto ngày nay. Ông là chứng minh tốt nhất của chính phủ Canada vào thời điểm đó.
Nỗ lực này cuối cùng đã đưa hơn 60.000 thuyền nhân, như những người tị nạn được gọi như thế, đến đây định cư và xây dựng cuộc sống mới trên đất nước tuyệt vời của chúng ta. Người ta ước tính rằng đã có 34.000 thuyền nhân đã được các gia đình Canada, những tổ chức từ thiện, các nhóm tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ, bảo lãnh và và 26.000 người khác được chính phủ Canada trực tiếp bảo lãnh.
Một em bé thuyền nhân được tiếp đón tại Canada. Nguồn: Photo Features Ltd.
Ở khắp nơi tại Canada, các nhóm nhà thờ và các tổ chức cộng đồng khác, bảo trợ nhiều gia đình người tị nạn đến Canada. Tôi biết điều đó đã xảy bằng một con số lớn trong thành phố Mississauga của tôi và ở thành phố Hamilton nơi mà tôi đã lớn lên. Lúc còn trẻ, tôi đã đi học ở trung học và đại học với một số người trẻ thuộc những gia đình người tị nạn khi đó. Tôi tận mắt chứng kiến nỗi đau họ đã trải qua hằn trên khuôn mặt của họ những người đã phải bỏ lại quê hương để đến Canada.
Quý đồng viện phía bên kia đã nói đến cú sốc của những người ở vùng nhiệt đới như Việt Nam đến ở một nơi rất lạnh. Hãy trở về thực tại, chúng ta đang ở vào đầu tháng Hai ở Ottawa, và bất kỳ người trong chúng ta đã ở ngoài đường hôm nay đều biết thời tiết ở đây rất lạnh. Thật là một cú sốc cho những người đã phải hứng chịu quá nhiều trong cuộc sống của họ.
Đó là một ví dụ chưa từng có về lòng bác ái của người dân Canada đối với vô số những người đang cần được giúp đỡ. Hơn một phần tư của một triệu người tị nạn Việt Nam đã thiệt mạng trong lòng biển trong cuộc đi tị nạn từ Việt Nam. Trên hành trình đó, 250.000 linh hồn đã mất. Tình hình tại quê hương đã phải là rất tuyệt vọng thì họ mới chấp nhận rủi ro rất lớn, liều mạng lên đường tìm đến tự do. Một số người đã ngã bệnh, trong khi những người khác đã chết đuối hoặc là nạn nhân của bạo lực của quân cướp biển, bị bắt cóc, và đã phải nhận chịu những hình thức bạo lực khác.
Làn sóng người tị nạn Việt Nam đến Canada và ổn định cuộc sống mới trên một đất nước xa lạ là một tấm gương ngời sáng về cách người Canada đáp ứng trước một thảm họa thế giới. Hành động bác ái của Canada gồm nhiều giai tầng, cộng đồng, và chính phủ. Nhiều gia đình người Canada đã đón người tị nạn vào ở chung nhà và giúp họ tìm việc làm và đi học. Đây được coi là một thời điểm mẫu mực trong lịch sử bảo vệ nhân đạo của Canada, và trong thực tế, là một yếu tố góp phần vào quyết định của Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng Nansen cho toàn dân Canada trong năm 1986. Đây là lần đầu tiên và duy nhất huy chương danh dự này được trao cho cả một quốc gia.
Do sự thành công vượt trội của chương trình bảo trợ tư nhân trong thời gian này, nó đã trở thành một phần cơ bản của chương trình tái định cư người tị nạn của Canada.
Đóng góp vào những câu chuyện thành công của những người tị nạn Việt Nam định cư ở Canada là chính những người Việt Nam tị nạn. Người Canada gốc Việt đang tham gia tích cực vào đời sống xã hội ở Canada, nổi bật trong kinh doanh, chính trị, nghệ thuật, thể thao, và các nỗ lực nhân đạo.
Đây chỉ là một vài ví dụ. Kim Phúc, một người nạn nhân chiến tranh Việt Nam được quốc tế công nhận, đã sáng lập một tổ chức ở Canada để giúp trẻ em nạn nhân chiến tranh. Paul Nguyen, một người Canada gốc Việt thế hệ thứ hai có cha mẹ là người sang Canada tị nạn, là một người đã nhận giải thưởng Paul Yuzyk về Đa Văn hóa năm 2010 . Kim Thúy, một tác giả nổi tiếng quốc tế, nhận giải thưởng văn chương của Toàn Quyền Canada cho cuốn sách của bà kể lại chuyện đời của mình. Đây chỉ là một vài trong số rất nhiều câu chuyện tuyệt vời của những người dân Canada gốc Việt đã kể lại những câu chuyện đời của họ và đóng góp vào sự phát triển của đất nước chúng ta.
Cộng đồng người Việt Nam tị nạn trên toàn thế giới đã gọi 30 Tháng Tư là Ngày Tháng tư Đen. Chọn ngày hôm đó ở Canada để làm rạng danh cộng đồng Canada gốc Việt của chúng ta là để bầy tỏ sự ủng hộ của chúng ta với một cộng đồng đã lớn mạnh ở đất nước này, về kinh tế, văn hóa, và xã hội. Dự luật S-219 đề nghị chọn 30 tháng 4 là Ngày Hành trình tìm Tự do ở Canada, là một ngày sẽ ghi nhận sự hy sinh của người dân Việt Nam trong một giai đoạn rất đen tối trong lịch sử thế giới.
Chủ nhật ngày đầu Tháng Hai vừa qua, tôi đã tham dự lễ mừng Tết hàng năm ở Mississauga tại Trung tâm quốc tế gần sân bay Toronto. Thủ tướng Chính phủ [Spephan Harper], Thượng nghị sĩ Ngô [Thanh Hải], và rất nhiều nhân sĩ đã phát biểu. Đó là một hội trường khoảng 15.000 người. Đây là lần thứ tám tôi đã có cơ hội để tham gia với những người Việt trong những ngày Tết hàng năm.
Đã có rất nhiều bài diễn văn về Dự luật S-219. Thật là một kinh ngạc với tôi khi thấy sự cực lực ủng hộ của cộng đồng người Việt Nam tại Toronto cho dự luật này. Họ biết dự luật này kể lại câu chuyện đời của họ.
Tôi cũng muốn đề cập đến “Tribute to Liberty”, tổ chức đang xây dựng đài tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Nó ở rất gần trong khu vực quốc hội, gần Tối cao Pháp viện. Chính phủ đã tặng 1,5 triệu đô-la góp phần vào dự án đó. Tôi khuyến khích tất cả mọi người dân Canada truy cập vào trang web, www.tributetoliberty.ca, và đóng góp. Người dân Canada gốc Việt sẽ là một phần rất quan trọng của những người được vinh danh trên di tích đó. Họ là một ví dụ trong số hàng trăm ngàn người dân Canada là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, những người đã đấu tranh để đến được Canada.
Mẫu vẽ đài tưởng niệm nạn nhân cộng sản – Tribute to Liberty (Ottawa). Nguồn: Tributetoliberty.ca
Với tất cả những lý do này, để làm rạng danh hơn 300.000 người Canada gốc Việt, những người đóng góp cho sự thịnh vượng và phát triển của Canada là những công dân tích cực làm việc trong xã hội chúng ta, tôi muốn cổ vũ tất cả quý đồng viện của tôi ở đây ủng hộ việc thông qua Dự luật S-219.
Dân biểu Lysane Blanchette-Lamothe (Pierrefonds-Dollard, NDP)
Thưa Chủ tịch Hạ viện, tôi rất hân hoan phát biểu về dự luật mà chúng ta đang bàn luận.
Đầu tiên, dù không muốn nhắc lại những gì đã nói trong cuộc tranh luận này cho đến nay, nhưng tôi vẫn muốn nói rằng tôi tự hào hôm nay chúng ta có thể nói chuyện về sự đóng góp của người Canada gốc Việt. Dự luật này một lần nữa cho chúng ta một cơ hội để cảm ơn họ vì những đóng góp của họ cho cộng đồng của chúng ta trên khắp Canada.
Trong khu vực bầu cử Pierrefonds-Dollard, có một cộng đồng người Canada gốc Việt năng động, họ là một cộng đồng không nhất thiết chúng ta luôn nhìn thấy, nhưng họ hiện hữu. Đây là một cộng đồng đã tích hợp vào các thớ sợi của cả cộng đồng dân Canada nên đôi khi người ta không chú ý. Tuy nhiên, họ có mặt khắp nơi và hội nhập rất tốt vào các lĩnh vực xã hội, kinh tế, cộng đồng và giải trí.
Và vì thế tôi không thể nói về dự luật này mà không nhắc đến họ. Tôi cám ơn họ đã là một phần của cộng đồng của chúng ta và những đóng góp vô giá mà họ đem lại.
Tôi cũng nhân cơ hội này để nói rằng ngày lễ kỷ niệm là có thể có vì tại một thời điểm nào đó trong lịch sử của Canada, chúng ta đã mở cửa và chúng ta quyết định, như là một quốc gia và một xã hội, để đón nhận những người đang tìm nơi nương náu sau một cơn khủng hoảng lớn. Khi cuộc chiến gây ra nhiều bi kịch của con người kết thúc, Canada đã mở cửa và nhận người vào, và nay họ là một phần không thể tách rời của cơ cấu xã hội, kinh tế và chính trị của Canada.
Lý do tôi đưa vấn đề qua hình thức này, và tôi không che đậy, là người bình phụ trách về vần đề công dân và dân nhập cư cho đảng Tân Dân chủ, NDP, tôi có thể nói rằng mọi thứ ở Canada đã thay đổi kể từ thời điểm đó.
Hãy xem qua một con số đơn giản. Sau cuộc chiến tranh ở Việt Nam, khoảng 60.000 Việt Nam được nhận vào Canada. Sáu mươi nghìn người tìm nơi ẩn náu và tìm thấy nó ở đây, ở nước ta.
Tôi không thể không so sánh nó với cuộc khủng hoảng ở Trung Đông hiện nay, đặc biệt là ở Syria. Liên Hiệp Quốc cho chúng ta biết rằng đây là cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm ngàn người đã tìm cách lánh nạn bên trong hoặc bên ngoài Syria, nhưng ông bộ trưởng nói với chúng ta rằng cho đến nay, chỉ có 1.300 người tị nạn Syria đã được nhận vào Canada kể từ đầu cuộc khủng hoảng, thật không may.
Cam kết nhận 1.300 người tị nạn mà ông bộ trưởng cho biết rằng ông đang gặp khó khăn gỡ khó có thể tưởng tượng để thự hiện đúng hạn là điều đáng xấu hổ khi chúng ta so sánh nó với sự cởi mở, khi chúng ta, khoảng 30 năm trước, khi chúng ta đón nhận 60.000 người đã chạy trốn sự gian khổ ở xứ của họ. Tôi nghĩ rằng những con số đã tự nó đã có thể nói cho mình.
[Dân biểu Lysane Blanchette-Lamothe (Pierrefonds-Dollard, NDP) dùng phần còn lại của thời gian tranh luận để tiếp tục phê bình chính sách đón nhận dân nhập cư và người tị nạn hiện nay của chính phủ Bảo thủ Cấp tiến đương nhiệm. Và ở phần cuối bài phát biểu, bà Blanchette-Lamothe kết luận,]
Tôi muốn kết thúc bằng một điểm tích cực bằng cách nhắc nhở mọi người rằng chúng ta đang nói về người Canada gốc Việt Nam và những đóng góp hiện nay của họ. Thật đáng khâm phục, không chỉ vì những gì họ đã đóng góp với Canada, mà còn vì những thử thách thức mà họ đã vượt qua. Tất cả những người tị nạn tại Canada đề phải trải qua những thách đố như thế. Không có ai lại chọn làm người tị nạn cả. Tôi không thể nào tưởng tượng được, nhưng tôi có thể hiểu được, thử thách mà những người tị nạn đã phải vượt qua khi họ phải rời bỏ người yêu thương, nơi họ hằng yêu mến, bỏ lại nền văn hóa, bỏ lại đất nước và khí hậu quen thuộc, đôi khi trong những khoảnh khắc vội vàng. Nhìn thấy thành công những con người ấy ngày nay thúc giục tôi cảm ơn tất cả dân Canada nói chung đã mở rộng vòng tay, đã góp phần vào các chương trình xã hội, đã cởi mở đón nhận những người tị nạn này. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta ở đây trong Hạ viện nên chào kính tất cả những người tị nạn, kể cả những người tị nạn Việt Nam đã tới 30 năm trước đây, và chúc mừng họ đã vượt qua trở ngại và trở thành một phần của gia đình lớn của xã hội Canada.
Quý ông Peter Kent, cựu bộ trưởng phụ trách Môi trường, dân biểu (Thornhill, CPC):
Thưa Chủ tịch Hạ viện, trong vài phút còn lại của buổi tranh luận, tôi xin được nhiệt tình ủng hộ Dự luật S-219, Đạo luật Ngày Hành trình tìm Tự do.
Tôi đã làm việc tại Việt Nam trong một thời gian khá dài khi còn là nhà báo trong những thập niên 1960, 1970, 1980, và ngay cả vào những năm 1990. Tôi được đặc ân đáng ngờ là đã có mặt ở Sài Gòn vào ngày đen tối đó, 30 tháng Tư năm 1975, khi tôi được di tản khỏi căn cứ của Hoa Kỳ cùng với những người Mỹ sau cùng, những công dân của các nước thứ ba khác, và hơn 7.000 công dân Việt Nam có mặt ở đó. Tôi đã theo dõi với mối quan tâm lớn trong những năm đen tối của những trại cải tạo suốt những năm còn lại của thập niên 1970 và sau đó, và tiếp tục với một mối quan tâm lớn tới hoàn cảnh của những người buộc lòng phải để rời khỏi đất nước của họ để tìm một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác.
Tôi có thể cam đoan với những đồng viện đã bày tỏ quan tâm, quý vị dân biểu vùng Beauharnois-Salaberry và Winnipeg North, rằng dự luật này sẽ được đưa vào nghiên cứu ở ủy ban. Ủy ban sẽ nghe điều trần của nhân chứng thuộc mọi quan điểm, và tôi mong được gặp Đại sứ Việt Nam trong thời gian nghiên cứu của ủy ban sắp đến.
Tôi sẽ nói với ông Đại sứ rằng dự luật này không phải là một sự lên án đối với chính phủ [CHXHCNVN] hiện nay. Chúng tôi có mối quan hệ chặt chẽ và tốt với chính phủ hiện tại. Dự luật này mô tả lại một thời điểm đặc biệt tối tăm và hành trình tìm tự do của hàng trăm ngàn người. Trong số này, 60.000 người tị nạn đã đến Canada. Trên thực tế, Việtt Nam có tự do hơn không phải nhờ chiến tranh nhưng vì những áp lực của tư bản, vì một nền kinh lế tự do, và vì ý chí của nhân dân muốn có một cuộc sống tốt hơn ở Việt Nam.
Để kết luận, ý nghĩa của việc tưởng niệm Ngày Hành hành trình tìm Tự do thực sự là ở ba phương diện. Nó sẽ đánh dấu những sự kiện bi thảm sau khi Sài Gòn sụp đổ và sự di cư của những người tị nạn Việt Nam. Nó cũng sẽ vinh danh tất cả những người Canada, những người đã vượt qua mọi thách thức để chào đón những người tị nạn đang bị chấn thương tinh thần, và giúp họ thích nghi với cuộc sống mới và tốt hơn trong một vùng đất mới và xa lạ. Sau cùng, nó sẽ tán dương những đóng góp lạ thường mà những người tị nạn Việt Nam đã thực hiện để xây dựng đất nước tuyệt vời của chúng ta.
Điều này vừa mới được chứng minh trong cuối tuần qua nhân dịp lễ Tết ở Toronto, nơi mà quý đồng viện đều biết rằng Thủ tướng Chính phủ đã phát biểu trước một đám đông hơn 10.000 người Canada gốc Việt Nam.
Tất cả người dân Canada nên biết đến những câu chuyện của những người tị nạn Việt Nam bị buộc phải rời bỏ quê hương, những nỗ lực nhân đạo lớn của người Canada đã thể hiện trên khắp mọi miền từ bờ Bắc Thái Bình Dương đến bờ biển Bắc Cực qua bờ Bắc Đại Tây Dương, và đã thắng nghịch cảnh mà hiện thân là cộng đồng năng động của người Việt Nam tại Canada ngày nay.
Quyền Chủ tịch Hạ viện (Ông Barry Devolin):
Thời gian để xem xét Dự luật đã hết hạn và được đưa vào bậc sau cùng cùng của thứ tự ưu tiên trong tập hồ sơ ở Hạ viện.
Quý dân biểu vùng Thornhill sẽ có sáu phút khi vấn đề này trở lại cuộc thảo luận trước Hạ viện.
Lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do từ văn phòng Thượng Viện ở Ottawa, Canada, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải cho biết:
Dự luật S219 của tôi đã được thông qua tại hạ viện ngày hôm qua, Thứ Tư, vào lúc 7:30 tối. Lúc đó Hạ Viện đã tranh luận sau một tiếng đồng hồ đảng Tự Do và đảng Tân Dân Chủ có một số dân biểu cũng nói lên sự chống đối của họ. Tuy nhiên vì bên đảng Bảo Thủ có đa số thành ra sau đó khi bỏ phiếu thì tất cả mọi đảng phái đều chấp nhận hết.
Thanh Trúc: Thưa Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, xin cho biết với các dân biểu chống đối thì lý do họ đưa ra để chống là như thế nào?
TNS Ngô Thanh Hải: Đa số nói rằng Đạo Luật ngày 30 tháng Tư này không được chỉnh lắm. Một số dân biểu đề nghị ngày 27 tháng Bảy bởi vì những dân biểu đó đã được đảng cộng sản Việt Nam hoặc tòa đại sứ cộng sản Việt Nam đến lobby họ rồi. Họ mướn người lobby để đánh phá, để dời ngày và làm chậm Đạo Luật của tôi. Khi mà tôi ra điều trần trước ủy ban thì tôi nói ngày 27 tháng Bảy là ngày kêu là tưởng niệm của quân đội cộng sản Việt Nam, một quân đội đã giết chúng tôi, đã tra tấn chúng tôi, đã bỏ tù chúng tôi, đã hành hạ chúng tôi… mà bắt chúng tôi phải tưởng niệm những người đó thì đâu có được, đó là một sự sỉ nhục cho người Canada. Khi nghe tới đó thì họ bắt đầu lui, tuy nhiên sau đó ông Chủ tịch bên Hạ Viện cũng đã bác ý kiến đòi tu chỉnh ngay, thành ra (họ) thua luôn.
Thanh Trúc: Xin ông cho biết tiến trình hay thủ tục trở thành Đạo Luật ngày ngày hôm nay vì nghe nói có vị Toàn quyền Canada xuống ký?
TNS Ngô Thanh Hải:Đạo Luật của tôi đã thông qua Thượng Viện và thông qua Hạ Viện thì bây giờ ông Thống Đốc Toàn quyền Canada đại diện Nữ hòang sẽ ấn ký. Ấn ký có sắc lịnh thông qua đây là Luật chứ không phải Resolution (Nghị Quyết) hoặc là Proclamation( Tuyên cáo). Đây là Luật cho toàn xứ Canada công nhận ngày 30 tháng Tư của chúng ta. Ông Thống Đốc Toàn quyền David Johnston sẽ đến Thượng Viện và sẽ ấn ký vào 4 giờ chiều hôm nay giờ Canada.
Cộng Đồng Người Việt của chúng ta tại Toronto, Montreal, và Ottawa cũng sẽ có mặt tại Thượng Viện để chứng kiến sự kiện lịch sử này đúng 4 giờ chiều nay. Đây là Đạo Luật cho dân Canada biết rằng người Việt tị nạn bỏ xứ ra đi sau 30 tháng Tư 1975 khi cộng sản chiếm miền Nam, đó là ngày chúng ta phải nhớ.
Đối với dân Canada, không biết ngày 30 tháng Tư là gì, nhưng sau đó chỉ trong vòng hai năm 1979 đến 1980 họ nhận 60.000 thuyền nhân Việt Nam. Từ 75 cho tới hiện nay thì người Canada gốc Việt ở Canada dân số khoảng 300.000. Đây là một chứng từ lịch sử cho thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba hoặc các thế hệ kế tiếp phải hiểu biết điều đó, biết rằng 30 tháng Tư là ngày chúng ta bỏ nước ra đi.
Thanh Trúc: Câu hỏi cuối củng xin được hỏi ông, đối với những người lâu này vẫn muốn ngày 30 tháng Tư là ngày quốc hận chứ không thể là ngày gì khác thì ông có lời nào bày tỏ?
TNS Ngô Thanh Hải:Thưa nó như thế này: quốc hận là quốc hận của ngừơi Việt Nam chúng ta, chúng ta hận là đúng, nhưng mà đối với dân Canada họ có gì đâu mà phải hận? Tuy nhiên, nếu coi kỹ trong Đạo Luật ,ngày quốc hận là ngày 30 tháng Tư khi chúng ta bỏ nước ra đi là lý do gì? Chúng ta bỏ nước đi tìm tự do chứ đâu phải là hận cộng sản đâu. Chúng ta chạy là chúng ta bỏ nước ra đi vì vấn đề tự do. Đạo Luật này không xóa bỏ ngày 30 tháng Tư mà chính thức là National Day của Canada đặc biệt công nhận ngày 30 tháng Tư.
Trong cái Preambule (Lời dẫn nhập) cũng có nói rằng cộng đồng người Việt Canada vẫn thường dùng ngày 30 tháng Tư là ngày Black April Day. Công việc đó đối với những người đó tôi không muốn trả lời bởi vì họ không đọc kỹ cái đạo luật của tôi, họ cho rằng đạo luật này không có nghĩ tới vấn đề quốc hận. Ai mà không biết ngày quốc hận, tôi cũng cho đó là ngày quốc hận vậy, nhưng ngày 30 tháng Tư chúng ta ra đi là để tìm tự do, bỏ nước bỏ gia đình bỏ nhà cửa để đi tìm tự do, thì ngày 30 tháng Tư là ngày chính. Xong rồi ra ngoài này chúng ta hận cộng sản là chuyện đương nhiên, thành ra ngày hành trình tìm tự do hay ngày quốc hận cũng vẫn được như thường bởi vì trong preambule của tôi vẫn đề ngày 30 tháng Tư là Black April Day mà công đồng ngừơi Việt thường dùng cũng như Ngày Hành Trình Tìm Tự Do.
Nói xóa bỏ ngày quốc hận 30 tháng Tư là điều mà Cộng sản Việt Nam vẫn dùng, vẫn đưa ra, để đánh lạc hướng. Họ vận dụng lý do đó để họ lobby các dân biểu các nghị sĩ chống đối Đạo Luật này, tìm cách làm mờ ngày 30 tháng Tư đi mà công nhận ngày khác như ngày 27 tháng Bảy là ngày liệt sĩ của quân đội cộng sản Việt Nam, đó là lý do họ làm. Chúng ta không nên mắc mưu vấn đề đó mà nên nghĩ rằng 30 tháng Tư chúng ta vẫn có là 30 tháng Tư, Đạo Luật này công nhận chính thức của Canada là ngày 30 tháng Tư. Do đó tôi thấy không nên hấp tấp cho rằng Đạo Luật này là xóa bỏ ngày quốc hận.
Thanh Trúc: Xin cảm ơn ông Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải về thời giờ của ông.
Về Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” tại Canada
Về Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” tại Canada
Nhân đọc “Thư ngỏ gởi Chủ tịch Hạ viện không đồng ý với dự luật S-219”. Hình bên: Bia tưởng niệm thuyền nhân và tri ân thế giới ở đảo Galang, Indonesia bị phá hủy theo yêu cầu của chính quyền CSVN (tháng 6, 2005).
Người tị nạn cộng sản Việt Nam đi tìm tự do. Ảnh: Eddie Adams (Con tàu không nụ cười, 1977) Như những bản tin(1, 2) đã đăng ở DCVOnline hôm 6 và 11 tháng 12/2014, cuộc vận động để dự luật này có nhiều ý kiến khác nhau khi được đưa ra tranh luận tại Hạ viện Canada đã tiếp tục bằng một trang web yêu cầu người Canada ký tên ủng hộ(3) Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” đặt ở trang nhà của dân biểu Jason Kenney (đảng Bảo Thủ, vùng Calgary South West, hiện là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ 9 tháng 2) và còn là Bộ trưởng Đa văn hóa (Minister of National Defence and Minister for Multiculturalism). Cùng lúc, một số người Canada gốc Việt cũng đã viết thư cho dân biểu Jason Kenney bày tỏ quan điểm không ủng hộ (Thu Mai) cũng như ủng hộ (Nguyen Duy Vinh) Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” như bản tin(4) đã đăng trên DCVOnline ngày 17/1/2015. Ngày 1 tháng Hai, 2015 trang web của “Canada-Vietnam Association” đã công bố “Lá Thư Ngỏ gửi Ngài Andrew Scheer và các Dân biểu”(5) không đồng ý với dự luật S-219 cùng với 22 chữ ký. Lá thư được viết bằng Anh, Pháp và Việt ngữ. Nội dung lá thư ngỏ có 3 điểm chính phản đối dự luật S-219, một là “các quy trình làm việc thiếu dân chủ của Thượng Viện”; hai là, “thiếu tính đại diện”; và ba là “nội dung không thích đáng”. Từ 3 điểm chính lá thư ngỏ khai triển thành 9 tiểu đoạn phản đối dự luật này. Trước khi vào phần phản đối dự luật S-219, “Ngày Hành trình tìm Tự do”, với 22 người dại diện ký tên, tác giả bức thư ngỏ thấy cần thiết phải công bố quá khứ nhân thân của Thượng nghị sĩ (TNS) đỡ đầu dự luật này ở Thượng viện, ngay ở đoạn thứ hai, họ viết,
“Người đỡ đầu Dự luật này là Thượng Nghị sĩ Ngô Thanh Hải,
một thành viên trước đây của chính quyền Sài Gòn bị sụp đổ vào tháng 4/1975.”
Thay vì chú trọng vào nội dung dự luật, những người chủ trương gởi lá thư ngỏ đã phí thời gian ngụy biện bằng cách đả kích cá nhân, argumentum ad hominem; đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất và có lẽ sẽ không có hiệu quả với ông Chủ tịch và dân biểu Hạ viện cũng như với giới tri thức Canada. Thế ông TNS đã là gì trong chính quyền Sài Gòn? Trước khi tốt nghiệp khoa Khoa học Xã hội và Mỹ thuật ở Paris-Sorbonne (Paris IV) ông làm việc với Trung tâm Văn hóa Pháp (Alliance française), đi dạy tiếng Pháp ở Kuala Lumpur, Malaysia. Sau đó ông tiếp tục dạy Anh và Pháp ngữ tại Hội Việt Mỹ và Trung tâm Văn hóa Pháp ở Sài Gòn. Từ 1971 đến 1973, ông Ngô Thanh Hải là Trưởng phòng Thông tin và Báo chí tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa. Hai năm sau đó ông là Tùy viên Báo chí và Trưởng phòng Chính trị tại Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Bangkok, Thailand. Tôi tin rằng ông TNS không trăn trở chút nào về cái quá khứ “thành viên trước đây của chính quyền Sài Gòn”. Thực ra nhóm chữ “chính quyền Sài Gòn” trong lá thư ngỏ là tương đối mềm dẻo; theo ngôn từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước kia thì ông TNS đã phải là “một đối tượng phản động của ngụy quyền Sài Gòn, có nợ máu với nhân dân”, v.v. Nói đi thì cũng phải nói lại. Nếu nhìn vào danh sách 22 người ký tên dưới lá thư thì có gần 1/3 thuộc một thành phần tương tự như ông Ngô Thanh Hải. Gần 1/3 đó là những sinh viên được chính phủ Việt Nam Cộng hòa (mà trong lá thư ngỏ gọi là “chính quyền Sài Gòn), bằng ngân sách quốc gia đã cho đi du học ở Pháp, Canada, và Mỹ qua Kế hoạch Colombo (Plan Colombo Plan) của Khối Thịnh vượng chung hay chương trình học bổng Leadership (USAID Leadership Sholarship Program) của chính phủ Mỹ mà cộng sản Việt Nam – Việt Cộng – thường gọi là Đế quốc Mỹ. Nợ máu thì chắc là không, nhưng có lẽ vẫn nợ đấy chứ? 1. Thiếu dân chủ Trở lại vấn đề chính của nội dung lá thư ngỏ phản đối Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do”, ở điểm số một, lá thư ngỏ cho là Thượng viện Canada thiếu dân chủ, “Ủy ban Thường trực về Nhân quyền của Thượng Viện Canada chỉ nghe các nhân chứng ủng hộ Dự luật, bỏ qua các cá nhân và tổ chức chống Dự luật, […]” chỉ vì ông Đại sứ nước CHXHCN Việt Nam không kịp làm nhân chứng điều trần ở Thượng viện để phản đối dự luật S-219. Thực sự thì không phải ủy ban ở Thượng viện Canada thiếu dân chủ mà vì văn kiện phản đối của ông Đại sứ không phải bằng tiếng Pháp và không được dịch kịp thời hạn để được đưa vào hồ sơ như dân biểu Mark Adler (CPC), người cùng đỡ đầu Dự luật S-219 tại Ha viện, đã trả lời dân biểu Anne Minh-Thu Quach (NDP) trong buổi tranh luận(6) về dự luật này ở tại Hạ viện chiều ngày 5 tháng 2, 2015. Làm ngoại giao tại Canada mà không biết Anh và Pháp ngữ là hai ngôn ngữ chính dùng trong tất cả các cơ quan hành pháp, tư pháp, lập pháp tại đây thì khác gì lấy tuyền thúng bơi ra biển lớn. Muốn điều trần trước các ủy ban nghiên cứu ở Thượng và Hạ viện Quốc hội Canada như 24.000 người(7) đã là nhân chứng ở các ủy ban tại lưỡng viện Quốc hội trong nhiệm kỳ của Thủ tướng thứ 20 của Canada Jean Chretien (1993-2003) thì tất cả đã cần phải hiểu rõ những nghi thức và làm những thủ tục cần thiết trước khi được nhận vào quốc hội để điều trần (8,9).
Tượng đài kỷ niệm Việt Nam tại Ottawa (để nhớ những người đã bỏ mình trên đường tìm tự do). Điêu khắc gia Phạm Thế Trung. Nguồn: Ottwa Citizen 16/5/1995. Việc phản đối dự luật S-219 bằng lá thư ngỏ hay những tuyên bố với báo chí của giới ngoại giao và người đứng đầu chính phủ Việt Nam hôm nay khiến người ta nhớ lại một phản ứng tương tự của chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, cực lực phản đối chính phủ Canada khi cộng đồng người Việt dựng tượng đài “Thuyền nhân mẹ bồng con” vào ngày 30 tháng 4, 1995 tại thủ đô Ottawa. Tất nhiên phản đối kịch liệt đó cũng không đi đến đâu vì tự do phát biểu là quyền căn bản của mọi người dân Canada. Và lá thư ngỏ phản đối dự luật S-219 hôm nay cũng là một minh chứng rõ rệt khác về quyền tự do bày tỏ ở xứ sở này. Tuy nhiên, cũng có dư luận đặt vấn đề và thắc mắc, “Tôi không hiểu vấn đề tại sao phải nghe ông Đại sứ CHXHCN Việt Nam. Ông là một đại diện của một nước lạ, tại sao ông ấy lại được phép điều trần về dự luật này? Với tư cách nào? Đây là một vấn đề hoàn toàn thuộc nội bộ của Canada và trong một tiến trình lập pháp của Quốc hội của Canada. Chấm hết.” – V. Attarian. Có lẽ vì Canada “có thừa dân chủ” nên dễ bị “lợi dụng dân chủ” hay chăng? 2. Thiếu tính đại diện Đọc lý do trưng dẫn ở điểm thứ hai của lá thư ngỏ để phản đối dự luật S-219, “Dự luật không phản ánh quan điểm chung của toàn thể cộng đồng người Việt tại Canada. Trong cộng đồng không phải ai cũng như nhau, và đa số là người di dân (“người đi bằng máy bay”) chứ không phải là thuyền nhân […]” cùng luận điệu với điểm số 1 trong điện thư(4) của ông Thu Mai gởi dân biểu Jason Kenney tôi có cảm tưởng những lá thư loại này, thứ nhất, muốn phân chia thứ bậc giữa những công dân Canada gốc Việt Nam mà thiểu số là những người đi thuyền đến Canada (boat people, thuyền nhân, người tị nạn cộng sản) và đa số là người đến Canada là người đi máy bay; thứ hai, tác giả lá thư ngỏ không hiểu chút nào về Canada. Đây là một xã hội khai phóng, nhân bản của những con người cởi mở, đồng cảm, hào hiệp, và những giá trị mà chân giá trị của đất nước này là tự do, dân chủ, pháp trị, nhân quyền. Đó chính là lý do tại sao cơ quan lập pháp của Canada đã quan tâm đến và muốn tưởng nhớ “hành trình tìm tự do” của những người tị nạn cộng sản Việt Nam đã vượt qua bao nghịch cảnh đồng thời cũng để tán dương những công dân Canada, những người hào hiệp đã thông cảm, mở lòng, mở cửa đón nhận thuyền nhân, và sau cùng là ghi nhận những đóng góp với xã hội của những người dân Canada gốc Việt trên mọi phương diện từ y học, kỹ thuật, kinh doanh, khoa học, đến luật pháp, học viện, nghệ thuật, truyền thông, cộng đồng và cả lãnh vực chính trị. Không còn nghi ngờ gì, dự luật S-219 phản ảnh tinh thần khai phóng, nhân bản, sự trân quý những gía trị cơ bản của toàn dân Canada là tự do, dân chủ, pháp trị, nhân quyền.
Mẹ bế con trên USS Mountrail 213 trên Đường tìm tự do. Nguồn: Nat Geo số tháng 6, 1955, trang 859. Ảnh: Gertrude Samuels Pix Inc. Nhân câu chuyện đi thuyền với đi máy bay tôi xin được nhắc lại chuyện của những người tị nạn cộng sản cách đây hơn sáu mươi năm trước ở Việt Nam, sau khi ông Tạ Quang Bửu (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và ông General Henri Delteil (Pháp) ký kết Hiệp Định Geneva vào ngày 21 tháng 7, 1954. Đó là làn sóng tị nạn chính trị lớn thứ nhì trong lịch sử nước Việt Nam sau thảm trạng thuyền nhân sau ngày 30 tháng Tư, 1975. Tình cờ, lúc đó những người lính Hải quân Mỹ gọi cuộc di tản khổng lồ đó là “Đường đến Tự do” (Passage to Freedom). Tính đến ngày 15 tháng 5, 1955 tổng số người miền bắc bỏ lại làng quê, bỏ lại phố phường, người thân và sản nghiệp vào nam vì không muốn sống với cộng sản (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) là 800.786 người(10); trong số đó 26,7% đi bằng máy bay, 68,2% đi bằng thuyền, và một số nhỏ hơn, 5,2% tự kiếm cách vào nam. Và đồng bào miền nam (Việt Nam Cộng Hòa) đã mở rộng vòng tay đón họ như người cùng một nước, không ai bị phân biệt là người đi máy bay hay đi thuyền, hoặc là người đã chống bè vượt sông Bến Hải cả. Họ đã cùng dân miền Nam đóng góp và xây dựng xã hội suốt 2 thập niên sau đó. Và một số không ít trong những người đi tìm tự do của những năm 1954-55 và con cháu của họ, 20 năm sau đã phải bỏ lại quê hương lần thứ hai, vượt biên, vượt biển đi tìm tự do vì không muốn sống với cộng sản. Ở Canada năm 2015 cũng vậy, không ai phân biệt những người dân gốc Việt ở đây là người đến bằng thuyền hay đi bằng máy bay, là sinh viên Việt Nam Cộng hòa du học trước 1975, người tị nạn cộng sản sau 30 tháng 4, hay là những người sang Canada đoàn tụ với thân nhân – đi học trước 1975 hoặc là người tị nạn sau 30 tháng 4 – hay là di dân đi lao động, đi làm ăn, hay đi học trong những năm sau đó. Tuy nhiên, mục đích đầu tiên của dự luật S-219 là nhằm dựng một cột mốc trong lịch sử của Canada để tưởng nhớ “hành trình tìm tự do” của những người tị nạn cộng sản Việt Nam. 3. Không thích đáng, khiếm khuyết Đọc lời phản đối trong lá thư ngỏ ở điểm số 3, “Dự luật lại cố ý chuyển sang đề cập đến vấn đề mâu thuẫn của thời chiến tranh Việt Nam và các chỉ trích tiêu cực về Chính phủ Việt Nam […]” tôi có cảm tưởng tác giả đã viết lá thư ngỏ trong ảo giác, đang chạy trốn sự kiện lịch sử về người tị nạn cộng sản nhưng lại mâu thuẫn khi chính họ nhiều lần lập lại những nhóm chữ “chính quyền Sài Gòn”, “Mỹ hậu thuẫn”, “sự can thiệp của Mỹ”. Thực ra, ở đây tác giả chỉ lập lại lối ngụy biện rơm trong tập hợp ignoratio-elenchi như những phản đối ở điểm (2) nêu trên. Cả dự luật S-219, bản Anh ngữ, có 460 từ và trong đó có 50 chữ đề cập đến những dữ kiện lịch sử Việt Nam chung quanh ngày 30 tháng 4, năm 1975. Lịch sử chỉ ghi lại dữ kiện và không đánh giá tiêu cực hay tích cực. Lịch sử sẽ mãi mãi còn đó; Ở phần khai triển, đoạn (c), tác giả lá thư cho là dự luật S-219 “xuyên tạc thông tin về sự ra đi của thuyền nhân”. Thực ra, đây là một luận cứ cũ rích và không vững. “Thuyền nhân chỉ là những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động.” – Nguyễn Cơ Thạch [Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam, tại Hội nghị LHQ về thuyền nhân, Geneva, 20-21/7/1979](12) Trước cổng vào Hội nghị do LHQ triệu tập 69 quốc gia, kể cả nước CHXHCN Việt Nam, đến Geneva ngày 20-21 tháng 7, 1979 để giải quyết thảm trạng thuyền nhân – vấn đề của cả thế giới, hai thuyền nhân Việt Nam đã giơ cao biểu ngữ “TOUT LE PEUPLE VIETNAMIEN CONTRE LA CLIQUE DE HANOI” [Tất cả người Việt Nam chống bè lũ Hà Nội”](13) “Thà chết giữa biển đông còn hơn sống với cộng sản”, một thành ngữ rất phổ biến giữa người Việt Nam sau năm 1975. Trích “Boat People: Imprints on History”, Lloyd Dương, trang 8. Tác giả Dương Thành Lợi là một thuyền nhân 14 tuổi đến định cư ở Canada vào năm 1980. Ông hiện đang hành nghề luật sư tại Toronto, ontario, Canada. 4. Sự thật lịch sử Những hành trình tìm tự do của người tị nạn chính trị và tị nạn cộng sản là những sự kiện lịch sử. Sau đây là một vài ví dụ tiêu biểu những đợt sóng người tị nạn trong lịch sử Canada(11). Thế kỷ 18 | Năm 1789, Huân tước Dorchester, toàn quyền của Thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (British North America tiền thân của Canada) đã công nhận những người tị nạn chính trị, bị đàn áp trong cuộc Cách mạng ở Hoa Kỳ từ New York sang định cư ở Quebec và Nova Scotia là “Những người trung thành dầu tiên” [“First Loyalists”]. Năm 1793, Upper Canada (Ontario ngày nay) là tỉnh bang đầu tiên của Đế quốc Anh xóa bỏ chế độ nô lệ. Thế kỷ 19 | Đến thế kỷ 19, hàng ngàn người nô lệ da đen trốn khỏi Hoa Kỳ sang Canada tự do xây dựng cuộc đời mới.1891, 170.000 ngàn người Ukraine chạy trốn sự đàn áp của chính quyền Austria-Hungary. 1920-1939, làn sóng người Ukraine tị nạn vì nội chiến, vì cuộc xâm lăng của Nga và vì trốn chạy cộng sản đã đến Canada. 1945-1952, lần thứ ba người Ukraine đã phải bỏ xứ ra đi vì họ không muốn sống với cộng sản. Thế kỷ 20 | 1947-1952, 250.000 nạn nhân của Nazis, cộng sản và cuộc xâm lăng của Liên Xô, từ Trung Âu và Đông Âu đã phải bỏ nước sang Canada tìm tự do. 1960, người tị nạn Trung Hoa bỏ nước ra đi để thoát khỏi bạo lực cộng sản của cuộc Cách mạng Văn hóa thời Mao Trạch Đông. 1968-1969, 11000 người Tiệp đã bỏ trốn sang Canada đất nước của họ khi bị quân Liên Xô và khối cộng sản Warsaw xâm lăng. Trong thế kỷ 20, sau dân tị nạn cộng sản Việt Nam, Canada còn đón nhận người Khmer tị nạn cộng sản trong những năm 1980; Thập niên sau cùng của thế kỷ, Canada đã nhận 5000 người Hồi giáo Bosnia, đưa 5000 người tị nạn Kosovar đến chốn bình yên. Thế kỷ 21 | Đến năm 2010, Canada đã đón nhận người tị nạn từ hơn 140 quốc gia trên thế giới. Tiếp tục phản đối, ở đoạn (b), lá thư ngỏ viết, “Dự luật này khiếm khuyết nghiêm trọng khi nó cố ý chọn ngày 30 tháng 4 làm ngày kỷ niệm sự ra đi của những người tị nạn Việt Nam” là sai và trích dẫn nhật báo Ottawa Citizen ngày 27 tháng 7, 1979 cho rằng “Đúng ra, ngày để kỷ niệm nên là ngày mà Canada đón nhận người tị nạn Việt Nam, và ngày đó xảy ra vào tháng 7/1979”. Tôi đề nghị tác giả lá thư ngỏ và 22 người ký tên đại diện không nên sợ sự thật và đừng bóp méo lịch sử. Trong phần phát biểu ngày 25 tháng 2 ở Hạ Viện, bà dân biểu Anne Minh-Thu Quách nói, “Hôm nay, chúng ta không phải sợ hãi khi nói sự thật. Mỗi con người có quyền được sống, quyền tự do và có cơ hội bình đẳng.” Đúng thế. Nếu đọc tài liệu của Nội các Chính phủ Canada ngày 26 tháng 6, 1975 về tuyên bố của Bộ trưởng bộ Nhân lực và Di Trú Bob Andras về người tị nạn(14) hay đọc báo Ottawa Journal(15) ngày cuối tháng 5, trong một bản tin của ký giả Bob Bull ở trang 25, người đọc sẽ thấy sự thật. Tin người tị nạn đến Canada. Ottawa Journal, May 30, 1975 | Page 25“Trong ba tuần nay, các chuyến xe buýt của hãng hàng không đã đưa người tị nạn Việt Nam xuống vỉa hè trước Khách sạn Queen’s [16] phía nam của nhà ga xe lửa chính của Canadian Pacific Railway. Một số được bạn hoặc người thân đến đón đi. Cộng đồng người Việt tại địa phương đã có mặt giúp khiêng hành lý và hướng dẫn họ làm thủ tục nhập cảnh.” – Trích The Ottawa Journal, May 30, 1975 | Page 25 Mọi người đều thấy sự thật là Canada đã quyết định và đón nhận người tị nạn Việt Nam từ ngay sau ngày 30 tháng 4, 1975. Một nét chính của nội dung bức thư ngỏ (cũng như điện thư của ông Thu Mai) hiện rõ qua những đoạn (d), (e), (f), và (g) là luận cứ biện hộ cho chính quyền cộng sản Việt Nam. Tôi tin rằng không ai bận tâm đến quan điểm phù cộng của tác giả lá thư ngỏ và những người đại diện, nhưng ở đây là họ lạc đề vì đã đánh tráo tiền đề. Mục đích chính của dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” không phải là để tố cộng hay bàn về thời sự Việt Nam mà là để công nhận và tôn trọng một sự thật lịch sử, đó là “hành trình tìm tự do” của người Việt Nam đến Canada sau ngày 30 tháng 4, 1975. Canada chưa hề lên tiếng phản đối việc Việt Nam hàng năm tổ chức kỷ niệm “Đại thắng mùa Xuân” hay “Giải phóng miền Nam” hà cớ gì tác giả lá thư lại bất bình với một ngày Canada chọn ghi vào lịch sử quốc gia này? Không như lá thư ngỏ viết người tị nạn đến Canada là bỏ đi quá khứ, “những người di dân chăm chỉ làm việc, chăm lo cho gia đình, và cố để quá khứ lại sau lưng”. Nếu ở Ottawa có tượng thuyền nhân mẹ bồng con đi tị nạn cộng sản thì năm 2001 ở công viên ven sông tại Windsor người ta đã dựng “Tháp Tự do” (Freedom Tower) để tưởng nhớ hành trình tìm tự do (1840-1860) của những người nô lệ trước cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ, và cộng đồng di dân Armenian cũng có tượng đài tưởng nhớ nạn nhân trong cuộc diệt chủng thời thế chiến thứ nhất do thành phố Montreal dựng ở công viên Marcelin Wilson. Tháp Tự do ở công viên ven sông thành phố Windsor (2001). Điêu khác gia Ed Dwight. Nguồn: www.eddwight.com Một vài ví dụ đó đủ xác minh rằng người Canada trân trọng chứ không chạy trốn hay bóp méo sự thật lịch sử. Người Canada cũng dựng tượng đài ghi nhận những sai lầm và bất công trong lịch sử. Thí dụ, cộng đồng người Canada gốc Ukraine đã dựng trên 20 bia và tượng đánh dấu thời gian bị chính phủ Canada quản thúc ở những trại giam trong thời đệ nhất thế chiến. Đến năm 2005, Thủ tướng Canada Paul Martin công nhận đó là một việc “không thể chấp nhận, không thể biện hộ” và là “nỗi khổ đau sâu thẳm” của dân Canada gốc Ukraine và vì thế đã thông qua đạo luật “Internment of Persons of Ukrainian Origin Recognition Act” công nhận sự kiện lịch sử này đồng thời chi dùng 2,5 triệu đô-la để tổ chức các cuộc triển lãm sự thật lịch sử. Đến năm 2008, Thủ tướng Stephen Harper thiết lập Quỹ giáo dục để quần chúng biết đến và tưởng nhớ những người gốc Ukraine đã bị giam cầm oan ức trong thời thế chiến thứ nhất. Tương tự, những sai lầm khác trong lịch Canada như việc bắt giữ người gốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, việc đánh thuế đầu người và phân biệt đối xử với di dân Trung Hoa, cũng như chính sách buộc trẻ em bản xứ vào hệ thống trường nội trú, đã được chính phủ Canada giải quyết bằng những lời xin lỗi chính thức và bằng sự tài trợ để phần nào đền bù cho những mất mát trong quá khứ(18). Bia và tượng “Why?” / “Pourquoi?” / “Chomu?”, của John Boxtel ở chân của tại giam “Castle mountain internment camp”, trong Công viên Quốc gia Banff, Alberta. Ảnh” Radtek67 – Own work. Licensed under Public Domain via Wikimedia Commons – http://commons.wikimedia.org/wiki/File:Castle_mountain_internment_camp.jpg#mediaviewer/File:Castle_mountain_internment_camp.jpg Nhiều người muốn quên ngày 30 tháng 4, 1975, ngày bắt đầu của thảm họa thuyền nhân, của người tị nạn cộng sản; họ cũng muốn quên nạn nhân cuộc Cải cách ruộng đất 1953-55, muốn quên cuộc di cư 1954-55, muốn quên hàng ngàn người bị thảm sát ở Huế vào dịp Tết Mậu Thân, 1968, v.v. Nhưng, một điều chắc chắn là lịch sử sẽ không quên. 5. Gây hận thù, bất lợi cho quan hệ hai nước Hai điểm sau cùng của lá thư ngỏ cho rằng Dự luật “Ngày hành trình tìm tự do” là “sản phẩm của một nhóm nhỏ người Canada, chủ yếu là gốc Việt, vẫn còn nuôi lòng thù oán đối với Việt Nam” sẽ “gây hận thù”, “gây chia rẽ lớn hơn” trong cộng đồng người Canada gốc Việt và “không đóng góp gì cho sự hợp tác chiến lược Canada – Việt Nam”. Thứ nhất, tôi tin rằng dự luật S-219 hôm nay hay khi thành một Đạo luật của Canada sẽ chẳng mảy may ảnh hưởng gì đến cái gọi là “sự hợp tác chiến lược” của Việt Nam với quốc gia này trừ khi chính phủ nước CHXHCN Việt Nam lập tức triệu hồi Đại sứ và vĩnh viễn đóng của Sứ quán ở Ottawa. Và đây là điều khó có thể xảy ra. Quan hệ hai nước sẽ tiếp tục như đã và đang có. Thứ hai, cụm từ “nhóm nhỏ người Canada, chủ yếu là gốc Việt, vẫn còn nuôi lòng thù oán đối với Việt Nam” là một thí dụ khác của lối ngụy biện thấp kém, chỉ trích cá nhân, đồng thời cũng là một sự đánh tráo khái niệm không lương thiện. Câu văn trên cùng loại như những câu “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” hay “Yêu nước ở Hồ Chí Minh là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn liền chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản”(17); nếu dùng chữ thời thượng mà nói thì chúng “không có cửa”. Có đi khắp cùng thế giới không ai có thể tìm được một người “nuôi lòng thù oán Việt Nam”. Người ta có thể thù oán một người, một nhóm người, một chế độ, một chính phủ – tất cả những thực thể đó chỉ hiện hữu nhất thời trong khi đất nước Việt Nam là một thực tế muôn đời. Đánh tráo “đất nước” với “chế độ” là thái độ rất không lương thiện. 6. Một vài điểm về hình thức của lá thư ngỏ
Tác giả và nhóm chủ trương đã cố gắng trưng bày tính đại diện cho người Canada và người Canada gốc Việt bằng 22 chữ ký; trong đó, gần 1/3 là di dân gốc Việt trước 1975, 2/3 còn lại là một nhỏ số dân Canada, thuyền nhân và di dân sau 1975.
Bản tiếng Việt của lá thư đăng trên mạng gõ bằng Unicode tổ hợp do đó có vấn đề khi hiển thị ở các duyệt trình phổ thông hiện nay (Chrome, Firefox, IE,… trừ Safari trên iOS)
Lá thư ngỏ được công bố ở trang nhà của “Vietnam-Canada Association” có địa chỉ ở 1351 Dufferin Street, Toronto, M6H 4C7, Canada. Thực ra đây cũng là địa chỉ của “Canada-Vietnam Trade Council”(19) với ba thành viên Hội đồng Quản trị mà hai người đã ký vào lá thư ngỏ. Bà Nguyễn Đài Trang của “Hội đồng Thương mại Canada-Việt Nam”, trong một bức thư gửi cho Ủy ban nhân quyền của Thượng viện đã viết, “Dự luật này …. có tác động tiêu cực mạnh mẽ hơn nữa là gây chia rẽ thêm một cộng đồng đã bị khủng bố và rạn nứt”(2). Tuy nhiên, bà không cho biết kẻ khủng bố cộng đồng người Canada gốc Việt là ai.
Thực ra bà Nguyễn Đài Trang hay Julie Nguyen hoặc Nguyễn Hoàng Đài Trang còn là tác giả(20) hai cuốn “Ho Chi Minh – The soul and talent of a great patriot” và “Hồ Chí Minh – Tâm và tài của một nhà yêu nước”, xuất bản để kỷ niệm ngày sinh thứ 120 của Hồ Chí Minh, 19/5/2010. Người hiệu đính bản tiếng Anh, Elizabeth McIninch(21), là thành viên HĐQT thứ hai của “Canada-Vietnam Trade Council” cũng là chữ ký số 12 trong lá thư ngỏ. Cuốn sách thứ ba cùng tác giả, “Hồ Chí Minh: Nhân văn và phát triển” ra mắt này 27 tháng 9, 2013 tại Toronto(22).
Trụ sở Vietnam-Canada Association, Vietnam-Canada Trade Council, Vietnam-Canada Chamber Of Commerce, và Canada Education Support …tại 1351 Dufferin Street, Toronto, M6H 4C7, Canada. Nguồn: Google Maps Địa chỉ 1351 Dufferin Street, Toronto, M6H 4C7 Canada trước đây là trụ sở của “Hội Doanh Nghiệp Việt Nam-Canada” (Vietnam-Canada Chamber Of Commerce) tiền thân của “Canada-Vietnam Trade Council” và cũng là cơ sở “Canada Education Support” (CES,Trung Tâm Hỗ Trợ Du Học Canada) mà giám đốc là bà Nguyễn Đài Trang. Thông tin không thống nhất và thiếu chính xác về 22 chữ ký trong 3 bản Anh, Pháp và Việt ngữ.Số 7, Bà Lê Thị Hoa được ghi là người “giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Montréal” trong bản tiếng Việt nhưng ở bản Anh và Pháp ngữ thì bà Hoa lại là “a professor and researcher at the Université de Montréal since 2010” và “un professeur et chercheur à cette dernière depuis 2010”. Thực ra thì tính đến mùa Thu 2014 thì bà Hoa đã là giảng viên (lecturer/chargée de cours) trong 5 khóa cho sinh viên khoa Sư phạm tại đại học Montreal từ mùa Thu 2011(23). Hiện nay trong sổ nhân sự của đại học Montreal thì bà Hoa là giảng viên/chargée de cours của faculté de l’éducation permanente – dạy tiếng Pháp như sinh ngữ thứ hai cho người không biết tiếng Pháp.Tuy nhiên trang chính thức của phân khoa l’éducation permanente(24) không liệt kê tên và trưng ảnh của bà Hoa với những giảng viên khác. Từ giảng viên/lecturer/chargé de cours đến giáo sư/professor/professeur là một quãng đường làm nghiên cứu khá dài.
Nguồn: Sổ nhân sự Đại học Montreal Số 9 và số 17 – Tên họ của hai chữ ký này trong bản tiếng Anh và Pháp là “Mr. Thu Viet Mai/M. Thu Viet Mai” và “Mr. Tinh Van Quach/M. Tinh Van Quach” nhưng ở bản tiếng Việt thì lại là “9. ThS. Mai Thu Việt” và “17. ThS. Quách Văn Tĩnh”. Chỉ có một cách giải thích hợp lý cho sự bất nhất này là hai ông ThS. họ Mai và họ Quách đã nhờ người khác “ký” hộ mình nên đã ghi sai tên thật so với giấy khai sinh; giả thiết khác cho là hai ông muốn làm ngọa hổ tàng long để phản đối dự luật S-219 hoàn toàn không khả tín. Nguồn: Thư ngỏ gửi Ngài Chủ Tịch Hạ Viện Andrew Scheer – KHÔNG ĐỒNG Ý VỚI DỰ LUẬT S-219 Số 20 của bà Thái Thị Thanh Mai bản tiếng pháp ghi “professeure-associée” là không đúng chức vụ hiện tại; vì không quen thuộc với từ ngữ dùng cho giới hàn lâm tiếng Pháp nên người dịch đã dịch từ nhóm chữ “Asociate professor” trong tiếng anh. Bà Mai hiện là một professeure agrégée (Phó giáo sư) tại trường HEC Montreal. Kết luận Lá thư ngỏ phản đối, không đồng ý với dự luật S-219 cho một số người đọc có cảm tưởng đây là tác phẩm của một người cộng sản (“This letter was written by a communist.” – J. Iwanic.) Tóm lại lá thư ngỏ phản đối Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” đầy những ngụy biện cấp thấp, thay đổi tiền đề, đả kích cá nhân, đánh tráo khái niệm, quy nạp sai vì những luận cứ loanh quanh bao biện cho chính phủ và chế độ hiện nay ở Việt Nam. Cả hai, chính phủ và chế độ hiện tại của nước CHXHCN Việt Nam không phải là mục tiêu của Dự luật S-219. Mặt khác để tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản trên khắp thế giới, chính phủ Canada đã góp phần với tổ chức “Tribute for Liberty” xây dựng một tượng đài uy nghi tại thủ đô Ottawa, ngay cạnh Tối cao Pháp viện. Mẫu đài Tưởng niệm Nạn nhân Chủ nghĩa Cộng sản tại Ottawa. Nguồn: www.tributetoliberty.ca Ở thế kỷ 21, thời đại của thông tin, tại những xã hội tự do, dân chủ người ta không hề sợ sự thật mà còn rất trân trọng lịch sử. Về phần mình, tôi luôn trân quý những kỷ niệm với người đi tìm tự do vì đã may mắn được góp tay trong những ngày đầu đi tiếp đón, hướng dẫn người tị nạn cộng sản ở Queen’s hotel (Montreal), ở High School of Commerce, ở hội trường đại học, ở văn phòng tìm việc, ở lớp dạy tiếng Anh (Ottawa), đến những ngày công tác với Ủy ban Cứu Người Vượt Biển (Montreal) và giai đoạn làm việc với Tổ chức SOS Việt Phi (Toronto) để giúp đưa người tị nạn cuối cùng ở Phi Luật Tân đến bến bờ tự do tại Canada trong quãng thời gian từ 1975 đến 2005. 30 tháng 4 rồi sẽ là một mốc lịch sử của Canada đánh dấu ngày người tị nạn Việt Nam đi tìm tự do, được Canada nồng hậu đón nhận, để rồi đã trờ thành và gầy dựng những nhân tố tích cực góp phần xây dựng một đất nước Canada mến yêu, khai phóng, nhân bản – ngày càng cường thịnh vì những gía trị muôn đời là tự do, dân chủ, pháp trị, nhân quyền. Viết cho người tị nạn cộng sản và để tưởng nhớ hàng trăm ngàn linh hồn người Việt Nam đã bỏ mình trên đường tìm đến Tự do (1975-1996)
Montréal, 14 tháng 2, 2015
BẢN ÁN CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nguyễn Thu Trâm
Tội ác của chủ nghĩa phát xít đã được thế giới biết rỏ và đã công nhận, nhưng có lẽ tội ác của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn ít người trên thế giới biết tới, đó là lý do mà Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản (Victims of Communism Memorial) được xây dựng trong một khuôn viên tại Washington, D.C. Mà theo Quỹ Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản thì mục đích của tượng đài là: "để lịch sử về sự tàn bạo của cộng sản sẽ được dạy cho các thế hệ tương lai", và được ghi nhận là "để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản".
Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản được Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush khánh thành vào ngày 12 tháng 6 năm 2007, kỷ niệm 20 năm ngày Tổng thống Ronald Reagan đọc bài diễn văn nổi tiếng "Hãy phá đổ bức tường này" trước Bức tường Berlin.
Đài tưởng Niệm 100 Triệu Nạn Nhân Của Chế Độ Cộng Sản
Trong buổi lễ khánh thành, Tổng thống Bush đã nêu ẩn danh của những người từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản:
“Họ gồm có các nạn nhân Ukraina bị chết đói trong Nạn đói Vĩ đại dưới thời Stalin; hoặc những người Nga bị giết trong các cuộc thanh trừng của Stalin; những người Litva, Latvia và Estonia bị quăng lên xe chở trâu bò và bị đầy khổ sai trong các trại tử thần vùng giá rét của chủ nghĩa Cộng sản Xô Viết. Họ bao gồm những người Trung Hoa bị giết chết trong Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa; những người Campuchia bị tàn sát trong những cánh đồng chết của Pol Pot; những người Đông Đức bị bắn chết trong lúc cố trèo qua Bức tường Berlin để tìm tự do; những người Ba Lan bị tàn sát tại rừng Katyn; và những người Ethiopia bị tàn sát trong cuộc "Khủng bố Đỏ"; những người da đỏ Miskito bị giết chết bởi chế độ độc tài Sandinista ở Nicaragua; và những người Cuba, Việt Nam bị chết chìm trong lúc vượt thoát bạo quyền.”
Để kết thúc bài diễn văn khánh thành tượng đài, Tổng thống George W. Bush cũng nói: "Thủ đô Hoa Kỳ chưa từng có đài tưởng niệm nào cho nạn nhân của chế độ cộng sản" và "Trước sự hiện diện của những người, nam cũng như nữ, đã đấu tranh cưỡng lại cái ác và tiếp tay đưa đến sự sụp đổ của đế quốc cộng sản, tôi hãnh diện thay mặt cho nhân dân Hoa Kỳ, nhận lấy Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản, ".
Kính thưa quý vị,
Rỏ ràng, sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản là một đại thảm họa của nhân loại. Trước hết, chúng tôi xin thống kê sơ lược số lượng hơn 100 triệu nạn nhân của chế độ cộng sản được phân bổ như sau:
- Liên Xô: 30 triệu người. - Trung Cộng, 70 triệu. - Việt Nam, 3 triệu. - Bắc Hàn, 5 triệu. - Cam Bốt, 3 triệu. - Đông Âu, 2 triệu. - Châu Mỹ La Tinh, 150 000. - Phi Châu, 2,7 triệu. - Afganistan, 2,5 triệu.
Sau non một thế kỷ chủ nghĩa cộng sản ra đời, những người cộng sản ở Đông Âu nhận thấy rằng, trên 100 triệu con người đã bị tàn sát để lót đường cho sự hình thành và phát triển của chế độ cộng sản là quá nhiều, nên họ đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản, quay trở lại với chế độ tư bản tự do và dân chủ. Tuy nhiên, với bản chất bảo thủ, hiếu chiến hiếu sát và tham vọng quyền lực, tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn kiên trì đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn, đó là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa được xây bằng xác người bị trị, bằng máu xương của những người yêu nước, và chắc chắn là di họa sẽ khó lường về cả vật thể lẫn tinh thần, đó là lý do cho sự ra đời của BẢN ÁN CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM này.
Tội Đồ Hồ Chí Minh
Từ khi tham gia vào quốc tế cộng sản vào những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã nhận chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế, đứa con đẻ của Lê Nin, ra đời vào năm 1919, mà một trong những chỉ thị gây di hại lớn hơn cả, đó là “Bạo Lực” và “Độc Tài Vô Sản” mà Hồ Chí Minh đã khéo léo đánh lừa dân Việt bằng cách thay từ “Chuyên chính vô sản” cho từ và “Độc Tài Vô Sản”, bởi từ “chuyên chính” thoáng nghe có vẻ tốt đẹp quá, chứ người Việt mấy ai hiểu được “Chuyên Chính” là một uyển ngữ của “Độc Tài”. Áp dụng bạo lực là một trong những chủ trương chính của Lênin. Và của Đệ tam Quốc Tế "Độc tài vô sản" được ông ta định nghĩa là "sử dụng bạo lực không chấp nhận một giới hạn nào cả, bất chấp tất cả các luật lệ". Về tinh thần quốc gia và tinh thần quốc tế, Lênin gạt bỏ tinh thần quốc gia, cho đó là môt quan niệm của giới truởng giả (bourgeois), và người cộng sản chỉ biết có một loại tinh thần quốc tế, đó là "chung sức với các người cộng sản khác để chuẩn bị, tuyên truyền, và gia tốc thực hiện cách mạng vô sản quốc tế". Ông ta kêu gọi những người cộng sản trên khắp thế giới "tiếp tay với Liên Xô tổ chức một đạo quân thống nhứt để thực hiện cuộc cách mạng vô sản thế giới và thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết toàn cầu". Lênin đòi hỏi người cộng sản phải tuyệt đối trọng kỷ luật. Vi phạm kỷ luật là bội phản giới vô sản. Ông ta nói : "không tuân kỷ luật là giải giới vô sản... người nào vi phạm một tý ty kỷ luật sắt của đảng vô sản là... tiếp tay cho giới trưởng giả chống vô sản". Và Hồ Chí Minh, một học trò kiệt xuất của Lê Nin đã vận dụng một cách sáng tạo “Bạo Lực Cách Mang” và “Độc Tài Vô Sản” vào thực tiển của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam ngay khi đảng cộng sản Việt nam chưa chính thức thành lập, để với “Bạo Lực Cách Mạng” đó, Hồ Chí Minh đã thanh trừng những người yêu nước, những văn hào nhân sỹ trí thức vốn được xem là nguyên khí của quốc gia như cụ Sào Nam Phan Bội Châu, cụ Phạm Quỳnh, cụ Ngô Đình Khôi, Trương Tử Anh, Khái Hưng, và cả những đồng chí của Hồ như Tạ Thu Thâu, Ngô Gia Tự, Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai...
Thảm Sát Huế Mậu Thân 1968
Cũng với “Bạo Lực” Hồ Chí Minh và Cộng sản Việt Nam đã thảm sát hơn 7.000 đồng bào Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 bằng hình thức chôn sống, hoặc đập đầu trước khi chôn, mà nạn nhân trong vụ thảm sát đó không ít người là các chức sắc tôn giáo, các sinh viên học sinh, các giáo sư đại học kể cả các cụ già và em nhỏ, mà chúng gán cho cái tội “Việt gian”.
Cũng với “Bạo Lực”, Hồ Chí Minh đảng cộng sản Việt Nam đã xua quân qua vùng phi quân sự tại vĩ tuyết 17 đánh chiếm tỉnh Quảng Trị, vào mùa hè 1972, trong chiến dịch lấn đất dành dân đó, cộng sản Việt Nam đã nã đại pháo trực diện vào đoàn người đang di tản ra khỏi vùng chiến cuộc, nghiền nát hơn 30.000 cụ già, phụ nữ và trẻ em trên đoạn đường dài hơn 3 km từ Triệu Phong đến Hải Lăng, Quảng Trị, tạo ra một Đại Lộ Kinh Hoàng, một Holocaust của Việt Nam.
Cũng với “Bạo Lực”, mùa Xuân 1975, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam đã xua quân đánh chiếm toàn Miền Nam Việt Nam, xóa tên trên bản đồ thế giới một nước Việt Nam Cộng Hòa hợp hiến, hợp pháp, có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ tuyến 8 đến vĩ tuyến 17, gây ra cảnh điêu tàn, đổ nát cho tất cả cả tỉnh thành của Miền Nam Việt Nam và cũng tạo ra cảnh thương vong cho hang triệu người dân vô tội. Mà theo thống kê của Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Chống Lại Loài Người Của Chế Độ Cộng Sản, thì số nạn nhân trực tiếp của Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam là 3 triệu người, một con số thống kê, hết sức khiêm tốn, so với thực tế lên đến cả 10 triệu người.
Như đã nêu trên, một chỉ thị khác của Quốc Tế Cộng Sản được Hồ Chí Minh tiếp nhận và phát huy một cách sáng tạo trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam nữa là “Độc Tài Vô Sản” mà Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam đã lừa bịp cả dân tộc bằng uyển ngữ “Chuyên Chính Vô Sản”, tức là bần cùng hóa toàn dân, tức là quốc hữu hóa tất cả cơ sở vật chất, tài sản của nhân dân. Biến tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, ao đầm, nhà máy, xí nghiệp của người dân thành tài sản của nhà nước, của chế độ. Phi giai cấp hóa toàn xã hội, tức là xóa bỏ hoàn toàn mọi tầng lớp quý tộc, thượng lưu, trung lưu, trí thức và kể cả các chức sắc tôn giáo trong xã hội bằng cách tịch thu tài sản của họ rồi hạ phóng, tức là đưa vào các trại cải tạo để tẩy não và hành hạ họ cho đến chết, rồi xây dựng một xã hội mới với những con người mới hoàn toàn vô sản, không có ý thức tư hữu bất cứ một loại tài sản nào, mà chỉ biết làm động để cấp nộp thành quả lao động lên cho “đảng và bác”. Ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt nam đã thực hiện rất thành công chỉ thì này thành một chính sách lớn của đảng và nhà nước thông qua cuộc cải cách ruộng đất, đấu tố phú nông địa chủ, tịch thu nhà cửa ruộng đất, hành quyết hơn 300.000 nông dân và tập trung giam giữ, cải tạo 700.000 người khác.
Cũng với chính sách “Độc Tài Vô Sản”, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã hết sực thành công trong việc tiêu diệt tầng lớp trí thức tư sản ở các đô thị Miền bắc thông qua vụ án Nhân Văn Giai Phẫm từ năm 1955 đến 1958 mà đao phủ trực tiếp của vụ án này đã nhận định rằng:
“Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm…”… mà những người liên quan, gia sản bị tịch thu, bản thân bị tập trung cải tạo, bị hạ phóng.
Và sau ngày cưỡng chiếm miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, “Bạo Lực” và Độc Tài Vô Sản” lại tiếp tục được những thuộc hạ của Hồ Chí Minh vận dụng hết sức thành công trước hết là bằng cách hành quyết những tiếng nói đối lập, tập trung giam giữ và cải tạo các sỹ quan, hạ sỹ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam quy kết là Ngụy Quân, Ngụy Quyền cùng với các viên chức hành chánh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và các chủ xưởng của các công ty xí nghiệp và lãnh đạo các tổ chức xã hội, các tôn giáo, các đảng phái mà không ít người đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn tại các nhà tù cải tạo đó, nhiều nhà máy, công ty, xí nghiệp, nhiều phương tiện sản xuất thuộc sở hữu tư nhân, chỉ sau một đêm bổng biến thành sở hữu của nhà nước, mà sau này được cổ phần hóa thành sở hữu của các cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước. Nhiều chủ cả, với tài sản tích cóp suốt cả đời người chỉ sau một đêm bỗng trở nên trắng tay, trở nên người vô gia cư, gai đình vợ con họ bỗng thành những nông dân bất đắc ở những vùng kinh tế mới.
Cũng với chính sách “Độc Tài Vô Sản” đó, nhiều chiến dịch cải tạo tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp nhiều lần đổi tiền đã được thực hiện từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 để biến toàn dân miền Nam thành những người vô sản, những người có nhiều tiền của ngoài việc bị tịch thu gia sản, còn bị hành quyết hoặc bị đưa đi tập trung cải tạo để tẫy não, để họ không còn tư tưởng sở hữu tư nhân, tức là không còn là thành phần bóc lột trong xã hội nữa, để họ phải biết “lao động là vinh quang” phải biết quần quật suốt đời làm lụng để cung phụng cho xã hội, cho đảng và nhà nước, như đàn ong thợ kiến thợ trong xã hội loài ong, loài kiến, chỉ có kiến đực, kiến chúa mới được hưởng thụ, còn kiến thợ thì phải làm lụng, phải lao động. Và phải biết rằng lãnh đạo đảng và nhà nước chính là ong chúa ong đực, còn cả xã hội Việt Nam, cả 90 triệu thần dân Việt Nam đều phải là ong thợ, kiến thợ hết. Đó là lý do để mọi người thấy dễ hiểu rằng tại sao 16 tấn vàng trong quỷ dự trữ Quốc Gia của Việt Nam Cộng Hòa được lưu giữ tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ở số 17 Bến Chương Dương, Sài Gòn, bỗng dưng trở thành tài sản riêng tư của Lê Duẩn và một số thuộc hạ của y trong bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam.
Cũng với chính sách “Độc Tài Vô Sản” ngay cả khi các nước XHCN Đông Âu đã hoàn toàn sụp đổ, đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra chính sách đổi mới như là một giải pháp nhằm xoa dịu người dân trong nước, bởi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ, lo sợ một cuộc cách mạng cam, cách mạng nhung cũng có thể xãy ra như đã xãy ra tại thành trì Xã Hội Chủ Nghĩa ở Liên Bang Sô Viết và ở các nước cộng sản khác ở Đông Âu, với chính sách đổi mới này, nhà nước cộng sản Việt Nam thừa nhận tính ưu việt của nền kinh tế thị trường, công nhận quyền tư hữu về phương tiện sản xuất, về nhà máy xí nghiệp và các doanh nghiệp, từ đó bắt đầu cổ phần hóa các công ty xí nghiệp và các doanh nghiệp mà trước đây nhà nước đã tịch biên của các nhà tư bản tư doanh và quốc hữu hóa. Điều đáng lưu ý là các cổ đông chủ yếu là cán bộ đảng viên cao cấp của đảng và nhà nước cũng như thân bằng quyến thuộc của họ. Điều đáng lưu ý là lúc này đảng và nhà nước Việt Nam không quy các địa chủ, phú nông, các chủ doanh nghiệp, các nhà tài phiệt là những kẻ bóc lột là kẻ thù của dân tộc nữa, bởi thành phần này hiện nay tập trung chủ yếu vào lãnh đạo đảng và nhà nước, tập trung chủ yếu vào các đảng viên cao cấp của đảng cộng sản. Hố ngăn cách giữa đời sống thị dân và thôn dân càng ngày càng lớn, khoảng cách giữa người giàu người nghèo trong xã hội càng ngày càng được khoét sâu, các lãnh đạo đảng và nhà nước, lãnh đạo các cục, các bộ có tài sản lên đến hàng ngàn tỷ đồng, hàng chục tỷ Mỹ Kim ký gởi ở các ngân hàng quốc tế, trong khi dân nghèo khắp các tỉnh thành trong cả nước cứ tiếp tục đói ăn quanh năm. Số lượng người nghèo, người vô gia cư, người ăn xin, người bán trôn nuôi miệng lại cứ thế tiếp tục tăng lên từng ngày. Cứ thế, số dân oan khiếu kiện cũng ngày càng gia tăng, bởi ruộng vườn nhà cửa bị quy hoạch bị giải tỏa để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, các khu đô thị cao cấp mà chủ đầu tư khai thác là các quan chức của chính phủ hay con cháu của họ.
“Bạo Lực Cách Mạng” và “Độc Tài Vô Sản” lại được áp dụng, lại phát huy tác dụng, dân oan khiếu kiện lại bị bắt bớ, bị tù đày với tội danh gây rối trật tự công cộng, các cá nhân, tổ chức bảo vệ những người thấp cổ bé họng, giúp họ đấu tranh cho công lý cũng bị bắt bớ tra tấn, giam cầm với các tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước hay âm mưu lật đổ chính quyền. Nhiều tiếng nói yêu nước, đòi hỏi cải cách xã hội dân sự, cách cải dân chủ và yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng các quyền tự do căn bản và quyền làm người của mọi công dân cũng bị đàn áp và khủng bố man rợ: Thêm nhiều nhà tù nhỏ lại được xây dựng để giam cầm tất cả những người dám lên tiếng bảo vệ quyền sống, quyền làm người của dân Việt trong khi cả đất nước Việt Nam đang bị biến thành một nhà tù lớn, đang giam cầm, đang bịt mắt bưng miệng cả toàn dân.
Ngày Đó Không Xa!
“Bạo Lực Cách Mạng” và “Độc Tài Vô Sản” cũng được áp dụng đối với cả những người ưu tư cho sự tồn vong của tổ quốc. Trước cơn quốc biến, trước họa ngoại xâm, những người yêu nước lên tiếng phản kháng sự cướp đất đai, biển đảo của giặc ngoại xâm cũng đều bị bắt giam và các nhà tù nhỏ. Những người xót thương cho đồng bào đồng chủng đang bị “tàu lạ” của ngoại bang trấn cướp, bắn giết trên biển đông mà lên tiếng phản đối, đả đảo, cũng bị đảng và nhà nước cộng sản tống giam vào các nhà tù nhỏ. Gần đây nhất, những bản án nặng nề mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tuyên phạt các nhà báo tự do như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Blogger Tạ Phong Tần, Anh Ba Sài Gòn hay cho các sinh viên Công Giáo tại thành phố Vinh là một tội ác mới của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong việc trấn áp những người yêu nước và khủng bố những người dân thấp cổ bé họng, trong một nổ lực nhằm duy trì quyền cai trị đất nước trong tay những người cộng sản.
Ngót một thế kỷ rồi, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam nắm quyền cai trị đất nước, đã biến Việt Nam thành một đất nước đói nghèo lạc hậu, biến dân tộc Việt Nam thành một dân tộc nhu nhược đớn hèn, mông muội bởi chính sách ngu dân và bần cùng hóa giống nòi, bởi chính sách “Độc Tài Vô Sản”. Đối với Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam chắc chắn trúc Nam sơn không ghi hết tội, nước Đông hải không rửa sạch mùi tanh hôi. Một ngày không xa nữa, những kẻ tội đồ của dân tộc sẽ phải trả lời trước lịch sử của giống nòi Lạc Việt, trước muôn dân về những tội ác mà chúng đã trót gây ra cho đất nước cho dân tộc. Tổng gồm các bản án mà Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản đã kết cho những người yêu nước hôm qua, hôm nay, sẽ là một bản án cho chính các lãnh đạo của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, những tội đồ của dân tộc, vào một ngày không xa nữa.
Ngày 26 tháng 9 năm 2012 Nguyễn Thu Trâm
Tưởng niệm nạn nhân cộng sản
Huy Tường (chuyễn ngữ và cập nhật)
(Phần giới thiệu bài viết:) Hơn một trăm triệu mạng người đã bị hủy diệt dưới bàn tay đẩm máu tàn bạo của các chế độ cộng sản đang có nguy cơ bị bỏ quên... Đẩy lùi tội ác cộng sản ra khỏi quê hương là bổn phận của tất cả chúng ta.
1- Bài “Remembering Red victims” của Jeffrey T. Kuhner đăng trên The Washington Times, Washington, D.C. ngày 30/11/2003 vẫn còn nguyên vẹn giá trị phổ quát, không mất thời sự tính. Tác giả giúp chúng ta luôn luôn nhớ về đại họa cộng sản hiện vẫn còn giày xéo quê hương thân yêu. Một mặt, chế độ bạo trị ra sức đàn áp người dân, mặt khác, cam tâm làm tay sai cho Tàu cộng, ve vãn quốc tế, và đangtìm mọi cách áp dụng kế “Kim thiềng thoát xác” hầu người dân trong nước và cộng đồng NVHN phải mặc nhiên chấp nhận chế độ bạo trị này. Nhưng, ngày nào cộng sản còn bạo trị, ngày đó, mọi người, nhất là CĐNVHN, không thể quên.
2- Trong lịch sử nhân loại, người ta sẽ phải ghi nhớ rằng thế kỷ 20 là một thế kỷ đẩm máu nhất. Nguyên nhân chính là do Lenin và đảng Bôn sê vích (Bolsheviks) đã thiết lập chế độ Mác xít trên đất Nga năm 1917. Liên bang Sô viết là tâm điểm của đế quốc cộng sản, cho đếnkhi tan rã năm 1991, đã gieo rắc các chủ thuyết kinh tế tập trung và đấu tranh giai cấp khắp nơi trên thế giới từ Đông Âu, Phi châu, Nam Mỹ cho đến Á châu và hàng tỉcon người đã phải gánh chịu sự tàn bạo của bọn độc tài Mác xít – Lê nin nít.
3- Hiện nay một số người ở Hoa Thịnh Đốn (Washington D.C.) đã tìm cách tưởng niệm vô số nạn nhân cộng sản. Dưới sự điều động can đảm của chủ tịch Jay Katzen, Tổ chức Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản đang tiến hành việc thực hiện lập đài Tưởng niệm các nạn nhân oan thác dưới bàn tay đẩm máu của các chế độ bạo tàn Mác xít tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Mục đích trước mắt là phải làm sao dựng cho bằng được đài Tưởng Niệm, mẫu tượng đài (phối hợp hài hòa giữa tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước và tượng Nữ thần Tự Do của sinh viên Trung Hoa trong biến cố đẩm máu Thiên An Môn, Bắc Kinh, năm 1989), giấy phép, gây qũy và địa điểm đã hoàn tất, lễ động thổ sẽ thực hiện vào tháng 9, 2006 và chậm lắm là vào tháng 6, 2007 sẽ làm lễ khánh thành. Đài Tưởng Niệm thật vô cùng cần thiết vì tội ác cộng sản đang có nguy cơ bị bỏ quên một cách đáng phàn nàn ! Cựu Tổng thống Tiệp Khắc, ông Vaclav Havel, tuyên bố: “Sự sụp đổ đế quốc cộng sản là một biến cố ngang tầm với sự sụp đổ đế quốc La Mã.” (1)
4- Mô thức của Lê nin đem lại hậu quả kinh hoàng, không chỉ tàn phá toàn bộ nền kinh tế và môi sinh một cách vô tiền khoáng hậu, mà còn khủng khiếp hơn nữa là đã sáng tạo ra một bộ máy giết người vĩ đại nhất: Hơn một trăm triệu mạng người đã bị hủy diệt dưới bàn tay đẩm máu tàn bạo của các chế độ cộng sản. Tuy nhiên các cơ quan nghiên cứu tây phương vẫn chưa hẳn đồng ý với nhau hoặc còn xem nhẹ mức độ tàn ác vô luân ghê gớm của các chế độ cộng sản.
5- Không như các chế độ độc tài phát xít, trong nhiều khuôn viên đại học Hoa Kỳ, người ta vẫn thường nghe nói về chủ thuyết Mác xít - Lê nin nít rằng đó là một lý tưởng cao đẹp đem lại hòa bình thế giới và công bằng xã hội, rằng nó từng là một ý tưởng tốt đẹp nhưng đã trở thành xấu xa, tồi tệ. Người ta đề cập đến chủ thuyết cộng sản như là kẻ ngồi trong tháp ngà bàn luận triết học hay những kẻ bàng quang nói chuyện trà dư tửu hậu, chuyện thời trang, phim ảnh, mưa nắng ... và chưa hề là nạn nhân từng nếm mùi cộng sản. Nói gì thì nói, chẳng có gì vượt qua được sự thật hiển nhiên về tội ác cộng sản. Trung Hoa, Bắc Hàn, Cu Ba và Việt Nam ngày nay là những hình ảnh sống động.
6- Tự khởi đầu, chủ thuyết cộng sản đã áp đặt bạo lực lên toàn xã hội bằng cách diệt chủng và tàn sát quy mô. Lê nin đã tạo ra tiền lệ cho các chế độ cộng sản đàn em noi theo, là thiết lập một cuộc cách mạng vô sản chuyên chính, mọi tầng lớp xã hội đương thời cần phải được quyét sạch một cách có hệ thống: tầng lớp thượng lưu, trung lưu, tư sản thành thị, địa chủ, hào phú nông thôn, bất đồng chính kiến (phản cách mạng cộng sản), và cả tầng lớp trí thức không theo Bôn sê vích: Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, bốc tận rễ. Căn bản độc tài toàn trị theo quan điểm của Lenin là phải xây dựng cho bằng được một xã hội “toàn hảo” bằng cách áp đặt luật lệ độc đảng và nghiền nát mọi bất đồng và chống đối.
7- Lịch sử thế giới cận đại còn vương vãi đầy dẫy các “sản phẩm quỷ quái” của Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Tito, Pol Pot, Nicolae Ceaucescu, Fidel Castro. Người ta cần nhớ đến sự tàn ác của các tay đồ tể này không chỉ vinh danh những người đã oan khuất mà còn là bài học biến thái của thế kỷ vừa qua: Ảo tưởng mang lại toàn trị; con đường dẫn đến ảo tưởng lại đi qua nỗi thống khổ khôn cùng.
8- Hàng triệu triệu con người bị các chế độ cộng sản sát hại không phải chỉ là phó sản tình cờ do các chính sách được hướng dẫn sai lầm mà chính là đích nhắm của mô thức Lê nin. Chẳng hạn, trong thảm kịch đại khủng bố năm 1933, lãnh tụ Sô viết Josef Stalin có kế hoạch giết khoảng 10 triệu nông dân Ukraine bằng cách bỏ đói cho tới chết. Mục đích diệt chủng nhằm phá nát nông thôn, hy vọng bóp nghẹt trái tim xứ Ukraine và củng cố quyền lực bằng gọng kềm thép. Nạn nhân của Stalin cũng bao gồm luôn các giống dân Ba Lan, Slovak, Tiệp, Hung, Lỗ, Chechen, Lithuania, Latvia, Estonia và Crimean Tatars (giống dân sau cùng này đã bị đồng hóa hoàn toàn về văn hóa và lãnh thổ sau thế chiến thứ hai.)
9- Sát nách Hoa Kỳ là một nước Cu Ba cộng sản hoàn toàn khép kín kể từ khi Fidel Castro lật đổ chế độ Batista năm 1959 và bị Hoa Kỳ cấm vận. Hoa kỳ đã thất bại trong việc giúp người Cu Ba lật lại thế cờ trong vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo năm 1961. Không một tin tức rõ ràng nào có thể kiểm chứng lọt được ra ngoài về số người bị sát hại và đầy ải, nhưng dưới chế độ cộng sản với Fidel Castro nắm chắc quyền lực gần 50 năm, con số này không phải là nhỏ, phải lên đến hàng mấy triệu. Chỉ biết là từ đó đến nay, số người Cu Ba lưu vong lên gần cả triệu người và phần lớn tập trung tại Miami và những thành phố phía Nam Florida. Về phương diện địa dư, Cu Ba tọa lạc tại bắc Mỹ, trên thực tế, Cu Ba về văn hóa và ngôn ngữ Spanish lại thuộc về Mỹ châu la tinh.
10- Mô hình này cũng được lặp lại y chang tại Á châu. Cho đến nay, chế độ cộng sản Bắc Hàn vẫn còn là chế độ toàn trị khép kín, cha truyền con nối từ Kim Nhật Thành đến Kim Chính Nhật, số người chết trong chiến tranh xâm lăng Nam Hàn năm 1952/53 và số người chết đói kể từ ngày thành lập chế độ không dưới con số 5 triệu người. (1) Chế độ cộng sản Bắc Việt đã tàn sát khoảng 500 ngàn người dân quê vô tội sau khi kết thúc cái gọi là “Cải cách Ruộng Đất” năm 1956. (1). Sự rút lui của Hoa Kỳ ra khỏi Đông Nam Á năm 1973 cũng đã tạo ra một hậu quả ghê rợn không thể tưởng tượng cho dân chúng sống trong khu vực. Các chế độ cộng sản đã được thiết lập tại Việt Nam, Cam Bốt và Lào. Hàng triệu người Cam Bốt đã bị Pol Pot tàn sát, trong lúc hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam bỏ mạng trên biển cả trong lúc trốn chạy trước sự hung hãn của bộ đội Bắc Việt. Và, sau đó vô số người chết trong những cái gọi là “trại tập trung cải tạo” được thiết lập khắp nước cộng với số người chết trong hai cuộc chiến cùng với số người chết đói từ năm 1954 đến năm 1986. Số người bị CSVN trực tiếp và gián tiếp sát hại lên đến bao nhiêu, 5 triệu hay 8 triệu ?
11- Tuy nhiên, tên bạo chúa cộng sản ghê tởm chính nhất là Mao Trạch Đông. Năm 1959, “Hoàng đế Đỏ” đã phóng tay phát động một chương trình tập sản hóa gây nên một đại nạn ghê gớm cho người dân mà y mệnh danh là “Bước Nhẩy Vọt” coi như để hiện đại hóa đất nước. Hiện đại đâu chả thấy, chỉ thấy đây là một đại thảm họa vô cùng kinh hoàng đem đến cái chết cho hơn hai mươi triệu người dân Trung Hoa. Rất nhiều nạn nhân là trẻ em trở thành “thực phẩm” cho những nông dân bị bỏ đói. Hàng triệu người chết và bị đầy ải trong cuộc thanh trừng “vĩ đại” mà y gọi là “Cuộc Cách Mạng Văn hóa” năm 1966 trong đó Đặng Tiểu Bình từng là nạn nhân suýt vong mạng.
12- Thế nhưng, trong khi tội ác của chế độ phát xít được các viện nghiên cứu và báo chí ghi nhớ thì các tội ác rùng rợn của chủ nghĩa cộng sản phần lớn vẫn còn bị bỏ quên. Điều này là cả một lỗi lầm đáng trách. Sinh mạng của các nạn nhân bị Hitler tàn sát không thể nào có giá trị hơn sinh mạng của những kẻ oan thác dưới bàn tay đẩm máu của Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot, Nicolae Ceaucescu, Fidel Castro hay chế độ cộng sản tại các phần đất khác trên thế giới. Những nạn nhân này xứng đáng được đối xử công bình hơn. Ông Katzen và tổ chức của ông kiên trì theo đuổi con đường của mình. Cuối cùng, các nạn nhân oan thác dưới bàn tay cộng sản cũng đã được thừa nhận thay vì bị bỏ quên quá lâu.
13- Cộng sản là một tội ác vĩ đại, về mặt thống kê, theo con số tổng quát mà tác giả đưa ra, tội ác cộng sản lớn hơn tội ác phát xít xấp xỉ 20 lần. Hitler giết 6 triệu người Do Thái trong các lò hơi ngạt và trại tập trung (Holocaust) và Do Thái là người ngoại quốc, không phải là dân tộc Đức trong khi cộng sản giết chính dân bản xứ, cùng chủng tộc, dưới quyền mình cai trị. Hitler chỉ nắm quyền trong một thời gian mấy năm ngắn ngủi, trong khi các xứ cộng sản chính (Nga, Trung Cộng, Việt cộng, Bắc Hàn, Cu Ba, ...) nắm bạo quyền hàng trên nửa thế kỷ với hơn trăm triệu người dân bị sát hại và hàng tỉ con người bị đầy ải trong một thời gian lâu dài. Các xứ hậu cộng sản (Nga và Đông Âu) vẫn chưa tẩy xóa hết dấu vết di hại sau mười mấy năm trời thoát ách cộng sản. Ngày nay, dù chỉ còn lại vỏn vẹn 5 nước, vẫn còn một tỉ rưỡi con người bị đầy ải trên chính quê hương của mình, và chưa biết đến quyền sống tối thiểu là gì.
14- Đẩy lùi tội ác cộng sản ra khỏi quê hương là bổn phận của tất cả chúng ta, của mọi người trong và ngoài nước trừ phi người đó là người ... cộng sản “trung kiên” trong nhóm “đặc quyền đặc lợi”. Nhân loại đang đi những đôi hia bảy dặm, và chế độ cộng sản vẫn tiếp tục gieo rắc tội ác trên đất nước VN. Những ai còn mơ hồ về cộng sản, rồi có ngày sẽ vỡ mộng, trả giá cho sự ngây thơ và sẽ không còn cơ hội hối hận.
(1) Website “ Victims of Communism Memorial Foundation: Honor the Victims of Communism and those who love Liverty”
Việt Cộng đối ngoại thì nhu nhược, bán nước, đối nội thì tàn ác và hà khắc với nhân dân.
-------------oo0oo---------------
Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Thuyền Nhân - www.Vietlist.us.
Nhóm Vietlist sưu tầm.
Sau khi chà đạp lên hiệp định Hoà bình Paris 1973 và cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975, csvn đã áp đặt một chế độ độc tài, man rợ lên toàn đất nước. Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi. Trong khi khoảng 2 triệu người may mắn đến được bến bờ tự do, thì có đến trên dưới nửa triệu người Việt thân yêu đã bỏ thây trên biển cả. Những hình ảnh dưới đây được ghi nhận từ năm châu, bốn biển để tưởng nhớ đến những thân nhân bất hạnh không bao giờ còn thấy được bến tự do .
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Đồng bào Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương tiện. Biết bao cảnh hãi hùng mà thuyền nhân đã chịu đựng trên biển cả mà không bút mực nào tả xiết.
Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản . Hình ảnh nầy và rất nhiều tượng đài tưởng niệm nạn nhân Cộng Sản trên toàn thế giới sẽ là những vết nhơ không tẩy xoá được trong lịch sử nhân loại.(Hình TTT)
Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản. Hình ảnh hãi hùng, tuyệt vọng của thuyền nhân được diển tả dựa vào Tượng đài Thuyền nhân ở Nam California.
Bia đá Thuyền Nhân Việt Nam tại đảo Galang, Indonesia, tưởng niệm những nạn nhân Cộng Sản đã đến được bến bờ tự do hoặc đã bỏ thây trên biển cả. Trại tị nạn Galang trên một hòn đảo ở Indonesia đã đón tiếp khoãng nửa triệu thuyền nhân Tị nạn Cộng Sản vào các năm 1978-1990. Việt Cộng đã làm áp lực với chính quyền Indonesia đục bỏ những dòng chử ghi chép tưởng niệm thuyền nhân. Tuy nhiên hành động kém can đảm nầy không mang lại kết quả mong muốn cho một chính thể độc tài. Nhiều tượng đài, bia đá tưởng niệm khác đã và đang tiếp tục được dựng lên trên khắp thế giới để tưởng nhớ nạn nhân của chế độ bạo tàn Cộng Sản.
Tượng đài tưởng niệm nạn nhân Cộng Sản tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Đức
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Đức
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại đảo Bidong, Malaysia
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại Bi.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Đức.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Phap.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Phap.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Phap.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Úc.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại nước Úc.
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại Geneve
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại Canada
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại Canada
Tượng đài tưởng niệm Thuyền nhân Việt Nam tại Canada
Nghĩa trang trên hoang đảo Galang, Indonesia là nơi một số người Việt đã gởi nắm xương tàn trên đường tìm tự do.
Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản (Hình TTT).
Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản.
Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản.
Tượng đài Thuyền nhân được thiết lập ở Nam California đế tưởng nhớ đồng bào bỏ mình trên đường trốn chạy khỏi chính thể bạo tàn Cộng Sản.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 1 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 2 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 3 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 4 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 5 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 6 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 7 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 8 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 9 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 10 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 11 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 12 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 13 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 14 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 15 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 16 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 17 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 18 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 19 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 20 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 21 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 22 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 23 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 24 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Tội ác Cộng Sản Việt Nam đã được khắc ghi vào bia đá ở Nam California: Bia đá 25 ghi tên người Việt đã bỏ mình oan khuất, đau khổ trên đường trốn chạy chế độ man rợ, bạo tàn Cộng Sản VN.
Người dân Việt Nam bỏ chạy lánh nạn Cộng sản được nhiều quốc gia quanh vùng Đông Nam Á cho tạm cư trong khi chờ đợi quốc gia thứ 3 tiếp nhận định cư vĩnh viễn. Dưới đây là hình ảnh các trại tị nạn quanh vùng Đông Nam Á trong các quốc gia Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Hồng Kông, Phi Luật Tân... Những quốc gia nầy là ân nhân của người Việt tị nạn Cộng sản trên toàn thế giới.
(source: VNBP và các nguồn khác)
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Galang - Indonesia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn Bidong - Malaysia.
Trại tị nạn White Head - Hong Kong.
Trại tị nạn White Head - Hong Kong.
Trại tị nạn White Head - Hong Kong.
Trại tị nạn Palawan - Phillippines.
Trại tị nạn Palawan - Phillippines.
Trại tị nạn Palawan - Phillippines.
Quang cảnh 1 trại tị nạn CS ở Thailand.
Quang cảnh 1 trại tị nạn CS ở Thailand.
---------------- còn tiếp -------------------
Cộng Sản Việt Nam đã nhiều lần lén lút bán nước cho Trung Cộng . Ngày nay người ta tìm thấy các văn kiện bán nước nầy được ngụy trang dưới nhiều danh nghĩa khác nhau: thư riêng, nghị định, hiệp ước v.v... Dù ẩn dấu dưới hình thức nào thì hậu quả cũng như nhau: đàn anh Trung cộng lấn chiếm đất liền, hải đảo, vùng trời, vùng biển ... của dân tộc Việt Nam mà cha ông ta đã bao phen đổ máu giử gìn .
Văn kiện bán nước do Phạm Văn Đồng ký dưới hình thức thư riêng.
"để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản"."
THẨM ĐỊNH TỘI ÁC CỘNG SẢN
( Lữ Giang ) "...Trong cuốn “Death by Government” (Chết do Chính Phủ), Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa học chính trị tại Đại Học Yale và Đại Học Hawaii, đã liệt kê những chế độ sau đây vào 10 chế độ gây chết chốc nhất (most murderous regimes) trong thế kỷ 20, đó là: Liên bang Soviet, Cộng Sản Trung Hoa, Đức Quốc Xã, chế độ Quân Phiệt Nhật, Cam-bốt dưới thời Khmer Đỏ, Thổ Nhỉ Kỳ dưới thời Young Turks, Cộng Sản Việt Nam, Cộng Sản Ba Lan và Pakistan dưới thời Yahya Khan. Giáo sư R.J. Rummel cũng đã liệt kê số nạn nhân bị sát hại trong thế kỷ 20 như sau:
61.911.000 bị chết trong các trại tù Gulag của Liên Bang Sô Viết.
35.236.000 bị chết dưới chế độ cộng sản Trung Quốc.
20.946.000 bị chết vì chính sách diệt chủng của Đức Quốc Xã.
5.964.000 bị chết dưới thời Quân Phiệt Nhật.
2.035.000 bị chết dưới thời Khmer Đỏ.
1.883.000 bị chết dưới chề độ diệt chủng ở Thổ Nhĩ Kỳ.
1.670.000 bị chết vì cuộc chiến Việt Nam.
1.585.000 bị chết do nạn thanh lọc chủng tộc tại Ba Lan.
1.503.000 bị chết trong thời Young Turks.
1.072.000 bị chết dưới chế độ Tito.
Sau đây là phần tóm lược về tội ác của một số lãnh tụ cộng sản lớn của thế giới:
I.- SƯ TÀN ÁC CỦA LÉNIN: Trường hợp của Liên Sô được coi là trường hợp điển hình nhất của tội ác chống nhân loại của chủ nghĩa cộng sản: Sau cách mạng tháng 10 năm 1917, Vladimir Lénin lật đổ chế độ quân chủ ở Nga và thành lập Liên bang Sô Viết gồm Nga và 14 nước láng giềng. Từ đó dân Nga phải sống dưới một chế độ cùng khốn.
Sau khi chế độ cộng sản Liên Sô và các nước Đông Âu sụp đổ, các hồ sơ mật lấy từ Văn Khố Cộng Sản Sô Viết cho biết Vladimir I. Lenin là một lãnh tụ đồ tể gian ác, giết người không gớm tay.
Trong bài "Lenin paints himself black with his own words" (Lenin tự tô đen mình bằng chính ngôn ngữ của mình) đăng trên tờ New York Times, ký giả Richard Bernstein viết:
"Chính trong khoảng thời gian 1917-1922, khi Vladimir I. Lenin lưu vong trở về Trạm Finland ở St. Petersburg, ông ta bị tật nguyền vì vỡ mạch máu, ông ta đã thi hành quyền lực chuyên chế bạo ngược trên toàn Liên Sô, dẫn đầu cho những tiêu chuẩn toàn kiểm trong thế kỷ thứ 20".
Ký giả Richard Bernstein cho biết các hồ sơ mật cho thấy lãnh tụ Bolshevik Lenin là một người hung hiểm đáng khiếp sợ. Lenin bí mật ra lệnh cho thuộc hạ tổ chức hàng loạt các cuộc thanh trừng đẫm máu và quy mô, treo cổ hàng trăm địa chủ trước nhân dân, cướp đoạt tài sản của Giáo Hội Chính Thống Nga, tàn sát giai cấp tư sản và các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Trong quyển "The Unknown Lenin", ông Richard Pipes, Giáo sư Sử Học Nga thuộc Đại Học Harvard, ghi nhận rằng yếu tố lạnh người nhất là Lenin đã ra lệnh "tạo sự kinh hoàng" trong quần chúng trên toàn quốc. Hồi đầu tháng 9.1918, Lénin viết: "Cần thiết và khẩn cấp chuẩn bị cho sự kinh hoàng, một cách bí mật". Tháng 8 năm 1918, Lénin chỉ thị cho bọn cầm quyền tỉnh Penza phải treo cổ ít nhất 100 người, một cách công khai. Lénin truyền lệnh: "Hãy thực hiện chuyện này bằng một phương cách mà người ta sẽ thấy, từ xa hàng trăm dặm, run sợ, biết đến, và gào thét. Họ bị treo cổ, và sẽ treo cổ đến chết bọn địa chủ hút máu".
II.- TỘC ÁC CỦA STALIN: Năm 1924, Lenin qua đời và Joseph Stalin lên thay thế. Stalin áp dụng triệt để chính sách tập thể hoá nông nghiệp, người nào tỏ ý chống đối liền bị giết hoặc đưa vào các trại lao động tập trung, tiếng Nga gọi là Gulag. Từ năm 1929 đến 1953, có khoảng từ 15 đến 20 triệu người Nga bị thiệt mạng, phần lớn là ở trong các trại tập trung.
Các sử gia ước tính rằng đã có khoảng 1/5 nạn nhân của Stalin chết trong các trại tập trung ở Kolyma, một vùng xa xôi hẻo lánh cách Moscow khoảng 9000 cây số. Cuộc sống trong các trại này dã man và khủng khiếp không thua gì các trại tập trung của Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba Lan, trước đó, nên thường được gọi là Auschwitz của Nga.
Trước hết các tù nhân bị nhét vào những xe chở gia súc và đưa đến Vladivostok. Trên chặng đường đó, một số người đã bị chết ngạt vì cảnh chen chúc trên xe. Từ Vladivostok, tù nhân bị đưa lên tàu đến Kolyma. Cuộc hải trình dài từ 8 đến 10 ngày. Nhiều người đã chết trong cuộc hải trình này. Có một chiếc tàu chở mấy ngàn tù nhân bị kẹt trong những tảng băng 9 tháng sau mới tới Kolyma và không một tù nhân nào còn sống sót! Một chiếc tàu khác chở 3000 tù nhân tới cảng Madagan, thủ phủ Kolyma, đúng hạn nhưng không còn có tù nhân nào sống sót cả, vì các tù nhân nổi loạn trên tàu, cai tù dùng vòi nước xịt vào phòng giam, biến phòng giam thành một bể nước dưới 40 độ âm. Toàn bộ tù nhân trên tàu đều biến thành những cây nước đá!
Lúc đó ở Kolyma có hơn 100 trại tập trung. Khi vào trại, đa số tù nhân phải làm công việc đào vàng 14 tiếng đồng hồ mỗi ngày, nhưng chỉ được lãnh khẩu phần là 700 gram bánh mì và một tô xúp bắp cải. Trong trường hợp không đạt được chỉ tiêu, họ bị bớt khẩu phần.
Không phải chỉ ở Kolyma mà ở tất cả các trại tập trung trên khắp lãnh thổ Liên Sô, các tù nhân đều phải sống trong những điều kiện như thế. Hầu hết các tù nhân chỉ có thể sống được trong vòng 2 năm. Các sử gia ước tính có khoảng 90% tù nhân chết trong tù. Năm 1991, sau khi chế độ Liên Sô tan rã, Tổng thống Boris Yeltsin ra lệnh thả 10 tù nhân chính trị cuối cùng trong các trại tập trung!
III.- TỘI ÁC CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG: Trong cuốn “Mao, the unknown story” , bà Jung Chang và chồng là Jon Halliday đã viết:
“Tháng 10 năm 1950 Mao phát động một chiến dịch chống phản cách mạng toàn quốc. Mao cũng đồng thời phát động cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp ở những vùng mới chiếm. Mục tiêu của Mao là phân chia xã hội ra nhiều thành phần: phản cách mạng, kẻ thù giai cấp, gián điệp, tôn giáo, địa chủ, tư sản, phú nông, cho tới kẻ cướp. Mỗi thành phần bị đối xử khác nhau. Mao hạ lệnh mỗi tỉnh phải gay gắt hơn nữa, phải tăng con số người bị bắt theo tiêu chuẩn của Mao. Mao cũng biết người ta ưa thích bạo động, nên Mao muốn những cuộc hành quyết phải được thực hiện ở nơi công cộng, càng được nhiều người chứng kiến la ó càng tốt. Một nhân chứng cho biết ngay giữa Bắc kinh, nhân chứng đã chứng kiến một đám đông đi theo hò reo la ó bao quanh 200 người bị Công An lôi đi trên đuờng phố và bị hành quyết ngay trên viả hè. Các xác chết, mặc dù còn nhỏ máu, được kéo đi khắp đường phố. Một năm sau, khi chiến dịch kết thúc, Mao tuyên bố có khoảng 700.000 người bị giết, nhưng con số thực sự phải khoảng 3 triệu.”
Tác giả cuốn sách cho biết thêm:
“Những người không bị giết thì bị bắt đi lao động cải tạo. Họ bị đưa tới những vùng hẻo lánh và bị bắt làm cho tới khi kiệt lực mà chết, theo kiểu mẫu của những trại tù Gulag của Liên Xô. Mức độ dã man của những phương pháp hành hạ cải tạo viên khiến một nhà ngoại giao Liên Xô phải thốt lên: “Tụi Quốc Dân Đảng cũng không tàn ác tới như thế”. Trong thời gian Mao cai trị, con số người chết vì lao động khổ sai lên đến khoảng 27 triệu.”
IV.- TRƯỜNG HỢP KHMER ĐỎ: Đọc cuốn “When broken glass floats – Growing up under the Khmer Rouge” của Chanrithy Him, hay xem cuốn phim “The Killing Fields” , chúng ta có thể hình dung được vô số những tội ác rùng rợn mà Khmer Đỏ đã thực hiện trong thời gian chúng cai trị. Để truy tố các lãnh tụ Khmer Đỏ, các chuyên viên tư pháp đã đến hiện trường thu thập bằng chứng, lấy lời khai của các nhân chứng và lập biên bản, nên chúng ta có nhiều tài liệu chính xác hơn.
Các chuyên gia đã đánh dấu được hơn 20.000 địa điểm bị nghi là những ngôi mộ tập thể dưới thời Khmer Đỏ và cho đào bới để tìm hiểu những gì đã thật sự xẩy ra tại Cam-bốt trong thòi gian Khmer Đỏ cai trị, từ 14.4.1975 đến 7.1.1979.
Học giả Etcheson cho biết các bằng chứng mới nhất cho thấy đã có từ 2.200.000 cho tới 2.500.000 người đã bỏ mạng dưới thời Pol Pot.
Nên biết, sau khi chế độ Khmer Đỏ sụp đổ, các chuyên gia đã ước lượng trong tổng số 7.100.000 dân Cam-bốt (số liệu 1972) có khoảng 1.700.000 người đã bị giết, Trong khi đó, nhà cầm quyền Cam-bốt cho rằng số người bị giết lên đến khoảng 3.316.000 người.
Theo học giả Etcheson, từ 1.100.000 cho tới 1.250.000 người đã bị xử tử; số còn lại chết vì đói khát, vì lao động cực khổ trong các trại lao động cưỡng bách. Các thành phần sau đây thường bị lựa chọn để tra tấn và đưa đi hành quyết:
1.- Bất cứ ai có liên hệ đến chính quyền cũ hay các chính quyền ngoại quốc.
2.- Những người trí thức hoặc chuyên gia, nhất là những người có đeo kính vì cho rằng họ đã đọc nhiều!
3.- Những người thuộc sắc tộc Việt Nam; những người theo Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo và các tu sĩ Phật Giáo.
4.- Những thành phần phá hoại kinh tế (nhắm vào những người giàu có trước đây sống ở thành thị, không có khả năng canh tác).
Thi thể của các nguời bị giết thường được vùi trong các mộ tập thể. Khu vực ở cách phía tây nam Phnom Penh khoảng 15 cây số được gọi là “Killing Fields of Cheung Ek” . Ở đó có khoảng 17.000 người đã bị giết và chôn trong các mộ tập thể. Đa số nạn nhân này trước đó đã từng bị giam và tra tấn trong nhà tù Toul Sleng trước khi được chuyển qua đây để hành quyết.
Các chuyên viên điều tra đã chia các mộ tập thể thành 3 loại:
- Loại 1: mộ tập thể nhỏ, thường là mộ của nguyên một gia đình như cha mẹ ông bà, một ít thân nhân và trẻ con.
- Loại 2: mộ tập thể trung bình, số người bị giết và chôn lên tới 200 người, chủ yếu là các tù nhân bị chọn lựa định kỳ tại các trung tâm giam giữ. Riêng tại trung tâm tra tấn số 21 đã có khoảng 16.000 người bị thanh lọc để bị xử tử trong 3 năm rưỡi.
- Loại 3: mộ tập thể lớn chứa tới 7.000 xác mỗi mộ.
Học giả cho biết loại mộ này được sử dụng khi nhà cầm quyền quyết định thanh toán toàn thể một quận. Chi phí cho các công tác điều tra nói trên đều do Cơ Quan Phát Triển Hoa Kỳ đài thọ thông qua Hiệp Hội Á Châu (Asia Foundation).
Những thủ phạm chính của tội ác chống nhân loại và tội diệt chủng là các nhân vật nằm trong Angka, tức cơ quan lãnh đạo tối cao của Khmer Đỏ. Sau đây là 3 nhân vật chính: (1) Pol Pot (Saloth Sar): “Anh Cả số 1”, Tổng Thư Ký Đảng Cộng Sản Cam-bốt từ 1963 cho đến khi qua đời vào năm 1998. Ông ta là người lãnh đạo phong trào. (2) Nuon Chea: “Anh Cả số 2”, Thủ Tướng, hiện còn sống. Theo Duch, Giám Đốc Sở An Ninh của Khmer Đỏ, “Nuon Chea là nhân vật chính yếu của các vụ giết chốc.” (3) Ieng Sary (anh vợ của Pol Pot): “Anh Cả số 3”, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Phó Thủ Tướng, hiện còn sống.
V.- TRƯỜNG HỢP CSVN: Trong cuốn “Death by Government” , sau khi trình bày qua lý lịch của Hồ Chí Minh, Giáo sư R.J. Rummel đã mô tả một cách tổng quát về tội ác của Đảng CSVN trong thời kỳ đầu như như sau:
“Khi Việt Minh tranh đấu chống Pháp, họ cũng thực hiện một cuộc chiến tranh bí mật tồi bại chống lại những người quốc gia không cộng sản cạnh tranh với họ. Họ ám sát, hành quyết và tàn sát tập thể tất cả các nhóm quốc gia, kể cả những thân nhân, bạn bè và vợ con của họ. Nhưng những người quốc gia không phải là những nạn nhân duy nhất, “giai cấp thù nghịch” cũng bị “trừng phạt”. Họ cũng thanh toán cả các nhóm Trotskystes và những người khác bị coi là đi lệch chủ nghĩa (tức nhóm xét lại). Hàng ngàn người trong giới trí thức cao cấp và những người Việt sáng giá đều bị tiêu diệt trong thời gian từ 1945 đến 1947 khi cộng sản củng bố quyền hành của họ.”
Các chuyên gia ước lượng trong thời gian từ 1945 – 1947, Việt Cộng đã giết khoảng 50.000 thành phần đảng phái quốc gia và tôn giáo. Ngoài ra, hai biến cố quan trọng sau đã được đa số chú ý, đó cuộc Cải Cách Ruộng Đất năm 1956 và biến cố Tết Mậu Thân năm 1968.
Về nạn nhân của cải cách ruộng đất: Nhật báo Nhân Dân số ra ngày 20.7.1955 cho biết kết quả 6 đợt cải cách ruộng đất đầu tiên có 10.303.004 người bị ảnh hưởng.
Bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000” tập 2, (giai đoạn 1955-1975) do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người đã bị đấu tố, tức bị giết. Tuy nhiên, sau khi sửa sai và kiểm tra lại, Đảng và Nhà Nước nhận thấy có đến 123.266 người bị coi là oan (chiếm đến 71,6%).
Về biến cố Tết Mậu Thân: Trong cuốn “The Vietcong Massacre at Hue” xuất bản năm 1976, Bác sĩ Elje Vannema cho biết số hài cốt tìm được trong 22 mồ chôn tập thể tại Huế sau khi Cộng quân rút lui là 2.326 người. Còn trong bộ “Encyclopedia of the Viet Nam War” , David T. Zabecki nói rằng số hài cốt tìm thấy trong các mồ tập thể là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích.
Có bằng chứng cho thấy tại nhiều nơi Cộng quân đã bắt các nạn nhân đào hố, sau đó trói thúc ké tay chân họ lại, ném xuống các hố do nạn nhân đào và lấp đất lại chôn sống. Đến tháng 4/1968 người ta tìm thấy mồ chốn 3 Bác Sỉ Tây Đức và bà Krainich (vợ Bác sĩ Krainich) gần khu chùa Tường Vân. Ba giáo sư này đã đến dạy cho Trường Đại Học Y Khoa Huế. Họ đã bị bắt đi sáng 31.1.1968.
Dĩ nhiên, tội ác chống nhân loại của Đảng CSVN còn nhiều, nhưng vì người Việt tỵ nạn chỉ thích viết các bài tố Cộng, tức các bài chửi bới và lên án Cộng Sản vung xích chó, hơn là truy tìm các bằng chứng lịch sử để kết tội, nên sử liệu bị thiếu sót quá nhiều..."
Chúng nói vì tình thương nhân loại, vì tình yêu đất nước; Chúng tranh đấu vì công lý và lòng thương người để lôi kéo người ta, để trở thành nhà lãnh đạo được tôn trọng. Thật ngỡ ngàng cho quần chúng, những tên độc tài máu lạnh không quan tâm tới những khẩu hiệu chúng đưa ra. Động cơ chính của chúng là được thống trị, là quyền lực, là được danh tiếng muôn thuở.
Đây là 25 tên độc tài khát máu nhất trong lịch sử.
25. Robert Mugabe. Tổng Thống của Zimbabwe. Đạo diễn giết chết hơn 200 ngàn thường dân. 24. Vlad III. Vương công xứ Wallachia 23. Kim Chính Nhật (Kim Jong-Il). Bắc Hàn, con của Kim Nhật Thành. Gần một phần tư triệu người bị bắt giữ trong thời gian cai trị và chịu trách nhiệm trực tiếp cho nạn đói và cái chết của cả triệu người dân Bắc Hàn. 22. Idi Amin Dada. Lãnh đạo ở Uganda. 21. Vladimir Lenin. Liên Xô. Áp đặt khủng bố đỏ "Red Terror" giết hàng triệu người một cách có hệ thống, kể cả đảng viên trong đảng của hắn. 20. Nhật Hoàng Hirohito. 19. Koki Hirota. Thủ tướng thứ 32 của Nhật. 18. Leonid Ilyich Brezhnev. Liên Xô. Hắn lãnh đạo các vụ diệt chủng tại Moldova, Volga Đức, Cossacks, Ba Lan, và thậm chí cả người Armenia. 17. Tưởng Giới Thạch. Trung Hoa. Với khủng bố trắng (white terror) làm khoảng 1 triệu người chết. 16. Kaiser Wilhelm II. Hoàng đế cuối cùng của Đức 15. Hồ Chí Minh. Trở thành Chủ tịch ở Bắc Việt nhờ dùng bạo lực và sự sợ hãi. Cải Cách Ruộng Đất với hơn 100 ngàn người bị giết. Hơn triệu người khác chết vì đói và chết trong các trại tù hẻo lánh. 14. Yakubu Gowon. Lãnh đạo ở Nigeria. 13. Mengistu Haile Mariam. Ethiopia. 12. Kim Nhật Thành (Kim Il Sung). Giết chết hơn 1.6 triệu người Bắc Hàn. 11. Saddam Hussein. Tổng thống thứ 5 của Iraq. 10. Ismail Enver Pasha.Bộ trưởng Bộ chiến Tranh đế quốc Ottoman. 9. Omar al-Bashir. Tổng thống của Sudan. 8. Pol Pot. Lãnh đạo ở Cao Miên (Cambodia). Giết chết khoảng 2.5 triệu người không theo lý tưởng của hắn. 7. Yahya Khan. Tổng thống thứ 3 của Pakistan. 6. Nicholas II. Hoàng đế cuối cùng của Nga. 5. Hideki Tojo. Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng nhiều bộ của Nhật thời thế chiến thứ 2. Trực tiếp chịu trách nhiệm khoảng 5 triệu người chết. 4. Josef Stalin. Lãnh đạo ở Liên Xô. Thực nghiệm chuyển qua nền kinh tế mới, gần 10 triệu người chết đói vì thế. Nhiều trí thức bị giết vì chống lại ý tưởng của hắn. 3. Leopold II. Lãnh đạo thuộc địa của Bỉ. Nô lệ và giết hơn 15 triệu người Congo. 2. Adolf Hitler. Lãnh đạo độc tài phát xít Đức (Nazis). Giết hơn 17 triệu người, kể cả 6 triệu người Do Thái. 1. Mao Trạch Đông. Lãnh đạo Cộng hòa Nhân dân Trung quốc (Trung Cộng), đam mê quyền lực. Trong 5 năm đầu lãnh đạo, hắn xử chết khoảng 4 tới 6 triệu người. Chính sách của hắn làm chết đói khoảng 20 triệu người, không kể những đối thủ của hắn bị giết chết.
3 Bloody Dictators of the 20th Century 13 tên độc tài vấy máu người của thế kỷ 20
Có những người đáng kính trọng vì họ đã làm nhiều điều tốt cho nhân loại, nhưng đừng quên rằng trong lịch sử cũng có những tên độc tài tay vấy đầy máu người, chúng chà đạp lên nhân phẩm và quyền của người dân. Độc tài có đủ loại, khi thì cá nhân, khi thì độc tài độc đảng, khi thì cai trị bằng một nhóm người, khi thì cai trị bằng một giai cấp,... chúng làm vấy bẩn lịch sử nhân loại.
Đây là những tên độc tài vấy máu người nhất của thế kỷ 20.
1. Enver Pasha. Thổ Nhĩ Kỳ, số người bị chết 1.1 tới 2.5 triệu người 2. Kim Nhật Thành. Bắc Hàn, số người bị chết 1.6 triệu người 3. Hồ Chí Minh. Bắc Việt, số người bị chết 1.7 triệu người 4. Pol Pot. Cao Miên (Cambodia), số người bị chết 1.7 tới 2.4 triệu người 5. Saddam Hussein. Iraq, số người bị chết 2 triệu người 6. Yahya Khan. Pakistan, số người bị chết 2 tới 12 triệu người 7. Hideki Tojo. Nhật, số người bị chết 4 triệu người 8. Vladimir Lenin. Liên Bang Sô Viết, số người bị chết 4 triệu người 9. Hirohito. Nhật, số người bị chết 6 triệu người 10. Tưởng Giới Thạch. Trung Hoa, số người bị chết 10 triệu người 11. Adolf Hitler. Đức quốc xã, số người bị chết 17 tới 20 triệu người 12. Joseph Stalin. Liên Bang Sô Viết, số người bị chết 40 tới 62 triệu người 13. Mao Zedong. Trung Cộng, số người bị chết 45 tới 75 triệu người
Nỗi đau của cả dân tộc:
Cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh
Tại hội nghị Genève Thụy Sĩ ngày 20-7-1954 nước Việt Nam bị phe tư bản và cộng sản chia đôi lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Miền Bắc thuộc khối Nga-Tàu, miền Nam là Mỹ-Pháp. Cuộc chiến tranh lạnh giữa Tư Bản và Cộng Sản kéo dài gay gắt từ ngay sau thế chiến thứ II và ba nước nằm trong lằn ranh tranh chấp ấy bị chia đôi là Đức, Triều Tiên năm 1945 và Việt Nam năm 1954. Trên bàn cờ quốc tế bấy giờ, Đông – Tây Đức, Nam – Bắc Triều Tiên, Nam – Bắc Việt Nam nằm trên tuyến đối đầu và rất dễ biến thành những con tốt thí cho cuộc chiến tranh lạnh nếu những người lãnh đạo không có bản lãnh, khôn ngoan, không biết nhìn xa, trông rộng, nhất là không có lòng yêu nước sẽ dễ dàng bị ngoại bang lung lạc, sai khiến.
Tuy trong cùng hoàn cảnh phân chia nhưng dân tộc Đức và Triều Tiên không bị thảm cảnh nồi da xáo thịt như Việt Nam. Miền Bắc Triều Tiên trải qua ba đời cai trị tàn bạo của triều đại cộng sản nhà họ Kim (Kim nhật Thành, Kim jong Il, Kim jong Un) cũng không gây ra cuộc chiến giữa 2 miền Nam – Bắc sau khi cuộc chiến Trung Cộng và Mỹ chấm dứt năm 1953. Hiện nay Nam Triều Tiên là nền kinh tế đứng hàng 11 thế giới.
Hai miền Đông – Tây Đức thay vì gây ra cảnh nồi da xáo thịt thì cả hai đều lo kiến thiết đất nước bị tàn phá tan hoang trong thế chiến thứ 2 thành 2 nền kinh tế vững vàng. Đông Đức Cộng Sản có đời sống cao nhất trong khối Cộng Sản, vượt trên cả Liên Xô. Sau 44 năm bị phân chia, dân tộc Đức thống nhất hoàn toàn chi trong 1 buổi tối, không tốn 1 viên đạn, không một người chết, không một ngôi nhà, một mảnh vườn bị tàn phá. Đó là tối 9/11/1989 khi bức tường Berlin, biểu tượng của sự chia cắt, sụp đổ.
Dân tộc Đức thực hiện cuộc thống nhất kỳ diệu: không có kẻ chiến thắng, không có kẻ chiến bại: chỉ có một dân tộc Đức hợp làm một, một dân tộc Đức thống nhất!
Trong khi đó dân tộc Việt Nam chịu nỗi bất hạnh của hơn 10 triệu tấn bom đạn đổ lên đầu, không biết bao nhiêu xe tăng, thiết giáp, máy bay, hoả tiễn, đại bác từ phía cộng sản và tư bản quần thảo, bắn phá gần 20 năm trời gây biết bao tàn phá, chết chóc ở cả Miền Nam lẫn Miền Bắc.
Trước hết nói về số người chết, dù là miền Bắc hay Miền Nam, thì tất cả đều là người Việt, con dân nước Việt. Máu, thịt đổ ra ở miền nào thì cũng là máu thịt Việt Nam! Có bao nhiêu triệu người Việt Nam chết trong cuộc chiến tương tàn này?
Kẻ thắng là chính quyền Cộng Sản từ khi chấm dứt chiến tranh đến nay chưa bao giờ dám công bố tổng số người chết trong cuộc chiến vì 2 lý do: thứ nhất, nếu công bố tổng số con số người chết rõ ràng thì cuộc chiến thắng của họ trả bằng cái giá xương máu quá đắt của dân tộc Việt Nam; thứ hai, họ không dám đứng ra nhận trách nhiệm về cuộc tiến quân vào miền Nam mà nếu biết nhìn xa, trông rộng, nếu có tấm lòng thương đến giống nòi, đất nước thì phải giữ yên 2 bờ chiến tuyến bị bắt buộc phân chia, rồi chờ cơ hội thuận tiện xum họp Nam Bắc một nhà.
Dân tộc Đức đã làm như thế và dân tộc Triều Tiên rồi cũng sẽ làm như thế!
Cố Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà Thương Thích huyền Quang từng nói đảng Cộng Sản Việt Nam giết chết 10 triệu người từ năm 1945 đến sau khi tàn cuộc chiến 1975, trong đó có gần 1 triệu chết trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Ông Nguyễn minh Cần, cựu phó Chủ Tịch Hà Nội hiện đang sống ở Nga, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 25.2.2015 ước lượng cuộc chiến tranh tương tàn Bắc – Nam vừa qua “gây chết chóc 6 triệu người hay thậm chí còn lớn hơn.”
Từ điển Bách Khoa Wikipedia viết số người thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam từ 3 tới 5 triệu người, hàng triệu người bị tàn tật. Về thường dân có từ 900 ngàn tới 4 triệu người, trong đó 2 triệu ở miền Bắc và 2 triệu ở miền Nam. Tài liệu của Wikipedia không đáng tin cậy: Thứ nhất, con số ước lượng từ 900 ngàn tới 4 triệu có khoảng cách quá xa. Thứ hai, đã nói từ 900 ngàn tới 4 triệu mà lại nói 2 triệu ở miền Bắc và 2 triệu ỏ miền Nam là không hợp lý.
Căn cứ vào số bom đạn, số vũ khí tối tân có khả năng tàn sát lớn, trận địa mở rộng khắp miền Nam từ miền núi tới đồng bằng, từ thành thị tới nông thôn kéo dài tới gần 20 năm và sự tàn sát không nương tay thì con số do cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang và ông Nguyễn minh Cần đưa ra hợp lý hơn.
Những người bị buộc phải trực tiếp cầm súng giết hại lẫn nhau ở hai miền là bao nhiêu?
Miền Bắc theo sách lược chiến tranh toàn diện, tức động viên toàn bộ nhân vật lực, ở thôn làng vắng bóng thanh niên. Phụ nữ bị động viên vào dân quân, thanh niên xung phong hay lao động các nông trường. Thiếu niên 16, 17 chưa đủ tuổi Đảng cho vay để bắt đi bộ đội vào miền Nam.
Ở miền Nam thanh niên lớn lên 18, 19 tuổi là bị bắt lính, trừ những người còn đi học. Nhưng sổ lính chờ sẵn nếu thi rớt là bị gọi ngay:
Rớt Tú Tài anh đi trung sĩ, Em ở nhà làm đĩ nuôi con. Khi nào con lớn con khôn, Nhắc con làm lễ chiêu hồn cho anh! (Ca dao)
Sao lại làm lễ chiêu hồn? – Lễ chiêu hồn ngày xưa dành cho những người chết không lấy được xác như đắm đò, té xuống sông bị dòng nước cuốn đi, lên rừng bị cọp tha xác mầt, linh hồn vơ vẩn không biết đường về nên người ta lập đàn chiêu hồn trên bờ sống, nơi mé rừng (để gọi hồn).
Ở đây người “chinh phu”nghĩ rằng trong tình trạng chiến tranh khốc liệt như thế mong gì ngày trở về: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Vương Hà). Xác phơi nắng, phơi sương ngoài đồng hoang, rừng sâu, núi thẳm lấy “ai mạc (vẽ hình để thờ), lấy ai gọi hồn” CPM.
Không biết ở miền Bắc có những câu ca dao tương tự không?
Từ Nam chí Bắc không nhà nào, không thôn xóm nào không có người chết trận.
Con số những thanh niên ở cả 2 miền Nam – Bắc bị bắt buộc cầm súng giết nhau là bao nhiêu?
Sau năm 1975, người ta tổng kê được 3.608.863 khẩu súng bộ binh của miền Bắc và 1.900.000 khẩu súng bộ binh của miền Nam do Liên Xô, Trung quốc, các nước Đông Âu và Mỹ, Pháp chế tạo, cung cấp, chưa kể đại bác, hoả tiễn, máy bay, xe tăng, thiết giáp… Như vậy ở miền Bắc ít nhất có 5 triệu người cầm súng và miền Nam ít nhất là trên 3 triệu vì những người bị chết, bị thương, quá tuổi được giải ngũ súng lại trao cho người khác. Tất cả có khoảng 8 hay 9 triệu người Việt Nam cầm súng bắn giết nhau!
Số tổn thất của miền Bắc: Theo tài liệu “Lịch Sử Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước (1954-1975) của nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia đã xuất bản thì tống số bộ đội chết trận là 1.100.000, kể cả 300ngàn không lấy được xác và 600 ngàn bị thương hay bị bệnh. Theo tài liệu mới nhất của Bộ Lao Động-Thương Binh Xã Hội thì:
- Cho đến năm 2012 cả nước qui tập được: 937.000 hài cốt liệt sĩ (*)
- Trong 2 năm 2013 và 2014 tìm thêm được: 90.000 hài cốt nữa.
- Số hài cốt liệt sĩ chưa kiếm được là: 214.000
Tổng cộng: 1.241.000 người chết.
Con số này không đáng tin cậy vì từ xưa đến nay chính quyền Cộng sản không bao giờ thành thật, người ta không dại gì đưa ra con số tổn thất lớn lao có hại về chính trị, dư luận bất lợi và nhất là trách nhiệm trước lịch sử.
Phần quân đội Mỹ, họ ước đoán giết khoảng 500.000 bộ đội (10 đổi), quân đội miền Nam giết khoảng 400.000. Con số này có lẽ là con số bộ đội bị giết trong thời gian quân Mỹ tham chiến (1965-1974), còn thời gian trước đó từ 1957,1958 đến 1965 là bao nhiêu? – Ít nhất cũng từ 500.000 đến 700.000 nữa chưa kể con số chết khi vượt núi rừng Trường sơn vào Nam: “cứ 10 người lính thì chỉ 5 – 6 người tới Miền Nam, còn lại bị chết vì bệnh sốt rét, rắn cắn, kiệt sức hay tai nạn” (Vi Wikipedia). Như vậy số binh sĩ Miền Bắc chết trong trận chiến khoảng 2 triệu người hay hơn nữa.
Số tổn thất của Miền Nam: Lewy dẫn tài liệu lưu trữ của Bộ Quốc Phòng Mỹ là 220.357 binh lính tử trận từ 1965 đến 1974, nhà sử học R.J. Rummel ước tính cao nhất là 316.000 tử trận. Số liệu của Bộ QP Mỹ chỉ ghi từ khi quân đội Mỹ có mặt ở Việt Nam 9 năm, non nửa thời gian cuộc chiến và có lẽ chỉ ghi sự tổn thất của lực lượng chính qui, không ghi các lực lượng bán quân sư như Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát và lực lương dân sự như cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, các viên chức Xã, Ấp. Chỉ riêng con số các viên chức Xã, Ấp ở miền Nam bị ám sát, bắt cóc thủ tiêu, theo Giáo Sư Sử Học Phạm cao Dương, đã lên tới khoảng 150.000 người bị giết hại do chính sách khủng bố của chính quyền Cộng Sản suốt cuộc chiến gần 20 năm trời.
Trong 1 cuộc khảo sát tại kho Lưu Trữ Hồ Sơ của Nha Hưu Bổng Cấp Dưỡng Bộ Cựu Chiến Binh ở Saigòn cuối năm 1973, chúng tôi ghi nhận có khoảng 1.050.000 hồ sơ cả cấp dưỡng và hưu bổng, trong đó hồ sơ Hưu Bổng (cho lính về hưu) chiếm 150.000, còn lại 900.000 là hồ sơ Cấp Dưỡng cho vợ con tử sĩ (quân chủ lực, bán quân sự, dân sự). Như vậy số người chết vì chiến trận hay liên quan xin cấp dưỡng là 900.000 người. Nhưng chúng ta nhớ là ở Miền Nam phần lớn gọi thanh niên từ 18 đến 25 tuổi vào quân đội, hầu hết những người này lúc bị bắt đi lính chưa lập gia đình nên khi tử trận không có hồ sơ cấp dưỡng. Con số đó là bao nhiêu?
Theo tôi nghĩ ít nhất là 400.000, 500.000 người.
Số dân chúng chết vì chiến tranh: Người dân là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh theo hai nghĩa : Nghĩa thứ nhất, chết do kẹt giữa 2 lằn đạn hoặc bị oanh kích, pháo kích, bị trúng mìn,bị truy đuổi trên Đại Lộ Kinh Hoàng, Quốc lộ 14; chết vì bị nghi ngờ theo Việt Cộng, bị tra tấn, đánh đập cho đến chết, chết trong tù; chết vì bị nghi ngờ làm do thám, làm anten cho Quốc Gia là bị giết, bị thủ tiêu. Vào những năm 1960-1970 người dân Saigòn tới Bình Chánh, Nhà Bè câu cá bị nghi là do thám nhiều người bị bắt mất tích (mang đi thủ tiêu), một phóng viên của báo Tự Do phụ trách mục phóng sự “Thăm Dân Cho Biết Sự Tình” bị bắt mất tích ở vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long… Giết lầm hơn thả lầm. Nghĩa thứ hai là đói khát khổ sở, không có ăn (bộ đội còn không đủ ăn -Vi Wikipedia), không có thuốc men, vì sưu cao thuế nặng cho chiến tranh nên nghèo đói, nghĩa vụ lao động nặng nhọc phát bệnh mà chết (miền Bắc); nhà cửa, ruộng vườn bị tàn phá, lang thang đói khổ phát bịnh mà chết (Miền Nam). Tất cả dân chúng chết trong cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh là bao nhiêu?
Không có con số thống kê. Từ Điển Vi Wikipedia ước lượng cả 2 miền là 4 triệu.
Ôi những con số! Những con số! 8,9 triệu người Việt Nam cầm súng bắn giết nhau trong gần 20 năm trời!
2 triệu lính Miền Bắc bị giết.
1 triệu rưỡi lính Miền Nam bị giết.
4 triệu người dân bị giết!
Núi xương sông máu!
Bao nhiêu tấm khăn tang?
Bao nhiêu dòng nước mắt?
Bao nhiêu cô, quả?
Bao nhiêu nhà cửa, ruộng vườn bị đốt cháy, bị tàn phá? Bao nhiêu con đường bị đào bới, bị đặt mìn và bao nhiêu chiếc xe bị nổ tung? Bao nhiêu cây cầu bị ném bom, bị đặt mìn giựt sập? Ai phát động hay bị bắt buộc phát động cuộc chiến? Ai đưa 430.000 quân Trung cộng tới Việt Nam? Ai đưa 500.000 quân Mỹ tới Việt Nam?
Ai trao tay xe tăng T 54 – M48, máy bay T28, F5 – Mig19, Mig21, Sơn pháo 130 ly, hoả tiễn 122 ly – đại pháo 155 ly,175 ly, AK47 – AR15 – dao găm, lưỡi lê, mìn bẫy cho người Việt Nam giết hại lẫn nhau?
Lịch sử đang và sẽ chỉ ra những người phải chịu trách nhiệm trong cuộc tàn sát vừa qua. Sự kết tội hay nêu tên người này, người khác không phải là mục đích của chúng tôi, chúng tôi chỉ nêu lên cái thảm họa tang tóc, bi đát mà dân tộcViệt Nam phải gánh chịu.
Tội ác của họ, tên tuổi của họ sẽ bị lịch sử ghi lại muôn đời; con cháu họ – cũng giống như con cháu Trần ích Tắc, Mạc đăng Dung, Lê chiêu Thống… – ngàn đời phải mang tiếng xấu của cha ông họ để lại.
Cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh đẫm máu này, sau cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh, là những trang sử đen tối nhất, đáng ghê tởm, đáng trách nhất của lịch sử Việt Nam.
Ước mong rằng con cháu chúng ta mai sau nhìn vào những tấm gương đáng nguyền, đáng trách của người xưa để tránh những thảm cảnh đau đớn cho dân tộc.