|
|
Các chuyên mục |
|
Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm
Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal
Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat
Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục
Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói
Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí
Web links
Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo
Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng
Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP
|
|
|
|
Xem bài theo ngày |
|
Tháng Tư 2024 | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 | CN |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thống kê website |
|
|
Trực tuyến: |
2 |
|
Lượt truy cập: |
24842250 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trực thăng quân sự chế tạo tại Trung Quốc bị nổ : 2 tướng Cam Bốt thân VN tử nạn
14.07.2014 11:26
Trực thăng Harbin Z9 do Trung Quốc sản xuất. wikipedia Một chiếc trực thăng của quân đội Cam Bốt đã bị rơi vào hôm nay 14/07/2014 xuống một khu vực ở ngoại thành Phnom Penh. Theo chính quyền Cam Bốt, tai nạn đã khiến 4 người thiệt mạng, trong đó có hai viên tướng. Đây là một trong số 12 chiếc trực thăng mà Cam Bốt đặt mua của Trung Quốc năm 2013.
Theo hãng tin Pháp AFP, chính Bộ trưởng Quốc phòng Cam Bốt Tea Banh – có mặt ngay tại nơi chiếc trực thăng bị rơi – đã xác nhận với báo chí con số thương vong là 4 người chết và một người bị thương.Chiếc máy bay tham gia một phi vụ huấn luyện và đã bị nổ trên không trước khi rơi xuống một khu khai thác đá đầy nước, ở làng Prey Sar, cách thủ đô Phnom Penh khoảng mười cây số. Trả lời hãng tin Pháp AFP, Kheng Tito, phát ngôn viên lực lượng cảnh sát quân sự Cam Bốt cho biết là có hai viên tướng Cam Bốt trong số bốn người thiệt mạng. Nhật báo Anh ngữ Cambodia Daily trích dẫn một nguồn tin xin ẩn danh cho biết là một trong hai viên tướng này là Phó Tư lệnh Không quân Ieng Vanarith. Cuộc điều tra về nguyên nhân tai nạn đang được tiến hành, nhưng phát ngôn viên quân cảnh Cam Bốt đã nêu lên giả thuyết sự cố kỹ thuật hoặc là lỗi của phi công. Theo một phóng viên AFP có mặt tại chỗ, khoảng 300 quân nhân, cảnh sát và thợ lặn đã được đưa đến nơi để tìm xác người tử nạn cũng như các mảnh vỡ của chiếc trực thăng, mà một số nổi trên mặt nước. Phi cơ bị nạn là một trong mười hai chiếc trực thăng Harbin Z-9 (Hải Đồn) mà chính quyền Phnom Penh đã mua của Trung Quốc vào năm ngoái (2013) để tăng cường năng lực quân sự của mình. Trị giá hợp đồng khoảng 200 triệu đô la. Vào năm 2008, một vụ tai nạn máy bay trực thăng khác tại Cam Bốt cũng đã khiến cho bốn người thiệt mạng, trong đó có Tư lệnh cảnh sát và Phó Tư lệnh quân đội Cam Bốt. Công an tiếp tục vây ráp Vườn rau Lộc Hưng ngày thứ 2EmailChính quyền phường 6, quận Tân Bình và lực lượng chức năng cả trăm người, hôm nay, tiếp tục đến vây ráp tại khu vực Vườn rau Lộc Hưng nơi 124 hộ dân đang canh tác tại đó từ năm 1954 đến nay đòi hỏi phải được trả lời minh bạch về thông tin miệng từ chính quyền là đất canh tác của họ thuộc dự án bị thu hồi. Một người dân vào lúc 11 giờ 30 trưa cho biết như sau: “2.57-3.27 Lực lượng hôm nay đông hơn hôm qua, có sự hổ trợ của màu áo xanh và cảnh sát, thậm chí cảnh sát 113 và dân quân, rồi trật tự đô thị, và ông Lâm Việt Thảo, chủ tịch UBND Phường 6, quận Tân Bình cũng đang có mặt ở đây. Ông này phát thanh và dùng những lời mỵ dân, khiến chúng tôi hoang mang vì nhiều người không biết đất này đã được qui hoạch như thế nào.” Vì hôm nay vị chủ tịch phường 6 là ông Lâm Việt Thảo công khai xuất hiện chứ không giấu mặt như ngày hôm qua, nên người dân đã có chất vấn trực tiếp với ông như lời người phụ nữ địa phương cho biết : “Tôi vừa mới nói với ông Lâm Việt Thảo, ông Hai Tài rằng việc việc muốn qui hoạch đất của chúng tôi các ông cứ việc làm; tuy nhiên các ông phải họp với chúng tôi- những người dân trực tiếp có đất, rồi đưa ra giá bồi thường thỏa đáng cho chúng tôi. Để chúng tôi còn biết được có thể canh tác đến lúc nào chứ, đúng không. Chúng tôi chưa hề nhận được giấy tờ nào nói về qui hoạch hết’. Chúng tôi gọi điện thoại cho ông chủ tịch phường 6 là ông Lâm Việt Thảo nhiều lần để hỏi về những điều mà người dân thông tin, nhưng máy không thông. Trong khi đó người dân Vườn rau Lộc Hưng tỏ ra kiên quyết trước biện pháp của chính quyền mà họ cho là áp đặt và không minh bạch, người phụ nữ địa phương nói tiếp: “Bà con chúng tôi nói thề chết, chúng tôi đã chuẩn bị nhiều phương tiện để chúng tôi sẵn sàng chết trên mảnh đất này.” Xin được nhắc lại vào sáng hôm qua, các hộ dân tại Vườn rau Lộc Hưng tiến hành dựng hàng rào để bảo vệ khu vực đất canh tác của họ do lâu nay có tình trạng đổ rác vào gây mất vệ sinh, ô nhiễm, ngoài ra các đối tượng như xì ke- ma túy và cướp giật cũng xuất hiện tại khu vực vườn rau mà cơ quan chức năng không truy dẹp. Ngay sau khi người dân vừa dựng cọc, thì lực lượng chức năng của phường 6, quận Tân Bình xuất hiện và ngăn chặn người dân với lý do xây dựng trái phép. Đây là vụ căng thẳng mới nhất giữa người dân và chính Vườn rau Lộc Hưng, thuộc phường 6, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, hôm nay bị các lực lượng chức năng ngăn chặn không cho dựng hàng rào quanh khu vườn rau, mà theo người dân lâu nay bị xâm lấn làm nơi đổ rác gây ô nhiễm, cũng như bị những thành phần tệ nạn như xì ke- ma túy, đá gà, cướp bóc sử dụng. Việc ngăn chặn như thế gây phẩn nộ đối với các hộ dân và họ có phản ứng khi lực lượng chức năng nhổ các cọc hàng rào mà người dân dựng lên vào sáng hôm nay. Một người trong cuộc cho biết sự việc vào lúc 12:30 trưa nay, 13 tháng 7: “Bây giờ họ đưa lực lượng tới, tấn công tới và hai bên đang xô xát với nhau. Hiện có công an 113, công an quận, công an phường, trật tự khu phố và thanh tra xây dựng. Ông chủ tịch phường giấu mặt, họ chỉ đưa Thanh Tra Xây dựng ra để đụng độ với người dân.
Cảnh sát an ninh bao vây khu Vườn rau Lộc Hưng sáng ngày 13/7/2014. Photo Facebook Huỳnh Công Thuận
Ở đây có đá gà, chơi xì ke, đổ rác, cướp giật ở đâu đổ về khu vực này gây mất an ninh trật tự. Công an có đặt một chốt dân phòng ngay bên cạnh đó, họ thừa biết mà không ăn nhằm gì. Vấn đề người dân đưa ra hôm nay là chỉ rào lại để an ninh trật tự ở khu vực thôi; nhưng họ vẫn ngoan cố không cho rào, không biết họ nhằm ý đồ gì trong vấn đề này.’ Khu vực Vườn Rau Lộc Hưng do 124 hộ chuyên canh tác các loại rau từ những năm 1954 cho đến nay. Dân chúng địa phương cho biết kể từ năm 1992 họ đã lập thủ tục sử dụng đất theo qui định của Luật Đất Đai năm 1993; thế nhưng địa phương không cấp cho họ, trái lại thường xuyên thông tin về qui hoạch khu đất dù rằng kế hoạch đó không có văn bản chính thức nào. Một người dân trình bày lại vụ việc: “ Từ năm 1992 đến nay chúng tôi vẫn gửi đơn để xin giấy xác nhận quyền sử dụng đất cho chúng tôi, xác nhận quá trình canh tác cho chúng tôi. Nhưng rồi cũng không có. Luật Đất Đai năm 1993 qui định nếu ai sử dụng trước năm 1993, kể cả đồn, bốt, bến cảng, đều được cấp quyền sử dụng đất. ( Trường hợp) chúng tôi từ năm 1954, đáng lý ra chúng tôi phải được cấp quyền sử dụng đất; nhưng chúng tôi đi từng bước: xin xác nhận quá trình canh tác từ cấp phường. Phường không cho mà lại đàn áp chúng tôi. Chúng tôi lên cấp quận kiện, tố cáo; cấp quận cũng không giải quyết. Rồi chúng tôi lên đến cấp thành phố; thành phố lại chỉ đạo người này, người kia xuống đàn áp chúng tôi và đánh đổ máu chúng tôi rất nhiều lần rồi. Chúng tôi đã ra tận Trung ương. Trung ương Đảng trả lời đã gọi điện thoại về thành phố giải quyết cho chúng tôi.” Theo người này thì lâu nay người dân vẫn canh tác trong tâm trạng âu lo vì chính quyền địa phương cứ vài tháng lại tuyên bố kế hoạch thu hồi đất mà không hề có cuộc họp nào với các hộ dân thuộc khu vực Vường Rau Lộc Hưng. Đây không phải là trường hợp đòi hỏi về quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật của Việt Nam qui định ở trong nước duy nhất lâu nay. Hiện thời, hằng ngày tại các cơ quan tiếp công dân của Đảng và chính phủ ở thủ đô Hà Nội vẫn có hằng trăm người dân tiếp tục đến để khiếu kiện về các trường hợp địa phương thu hồi đất đai mà theo họ không đúng qui định Luật Đất Đai do Nhà nước ban hành. Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) tìm mọi cách bịt miệng người Việt chống cộng hải ngoại.
Ngoc Nhi Nguyen (Danlambao) - Cộng sản (CS) thành công nhất là khi chúng có thể lừa gạt được người dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Bên ngoài chúng sẽ đưa ra bộ mặt thật đẹp, nào là quang vinh anh dũng văn minh phát triển, tôn trọng nhân quyền, tự do dân chủ... nhưng bên trong thì thối nát, tham nhũng, tàn độc, đàn áp dã man bất cứ những ai dám chống đối. Chúng ta đã thấy CSVN thản nhiên đầu độc thầy giáo Đinh Đăng Định trong tù, tàn nhẫn khiến cho anh Huỳnh Anh Trí bị lây HIV mà qua đời chỉ mấy tháng sau khi ra tù, chúng cũng không ngần ngại cho công an giả dạng côn đồ đánh gãy chân chị Thúy Nga trong lúc chị ấy bồng con nhỏ trên tay...
Nhưng ra ngoài thế giới thì CSVN lại đeo 1 cái mặt nạ hoàn toàn khác hẳn, đòi vào hội đồng Nhân Quyền, cam kết này nọ đủ thứ rất hoành tráng để lừa gạt cộng đồng quốc tế.
Vì vậy mà CS rất sợ người Việt hải ngoại chống cộng, càng sợ hơn những người giương cao ngọn cờ vàng, vì không có cách nào ảnh hưởng tư duy của họ, đặc biệt là những người giỏi tiếng Anh và có thể vận động các hội đoàn, dân biểu, chính khách quốc tế.
CS bỏ ra hàng tỷ đồng hàng năm cho Nghị quyết 36 “nhuộm đỏ” cộng đồng người Việt hải ngoại, ngày xưa bằng cách đưa văn công đem ca nhạc CS ra nước ngoài trình diễn, cho giáo viên sang mở lớp dạy văn hóa, ngôn ngữ CS… cho đến ngày nay thì cho cán bộ, đảng viên, công an... trà trộn vào những người ra nước ngoài học và làm việc, để xây xáo trộn đánh phá cộng đồng.
CSVN tìm mọi cách cô lập cộng đồng người Việt tự do chống cộng ở hải ngoại, khiến cho tiếng nói của họ trở thành tiếng vọng từ đáy vực, từ từ không còn ai nghe được nữa. Khi đó chúng yên tâm và dễ dàng khống chế mọi phản kháng trong nước, những nhà đấu tranh dân chủ quốc nội sẽ mất đi sự ủng hộ của hải ngoại sẽ dễ dàng bi tiêu diệt.
Hải ngoại là hậu phương lớn và vững mạnh của phong trào dân chủ trong nước, thì đương nhiên CS muốn tìm mọi cách tiêu diệt, và bịt miệng.
Và càng như vậy thì cộng đồng chúng ta càng cần phải lên tiếng mạnh mẽ liên kết với càng nhiều bạn bè nước ngoài và càng phải tố cáo tội ác CS cho thế giới được rõ.
Nguyễn Tiến Trung: Tôi đứng về phe nước mắt
Nguyễn Tiến Trung - Ngày này năm năm trước công an tràn vào nhà và đưa mình vào nhà tù B34. Năm năm trôi qua và bây giờ mình lại ở trong căn phòng quen thuộc, gặp và nói chuyện lại những người anh em dân chủ trước đây và mới tham gia vào phong trào dân chủ sau này. Mình thấy rõ ràng rằng sau năm năm với bao nhiêu vụ bắt bớ, phong trào dân chủ không hề suy yếu đi mà ngày càng lớn mạnh hơn với sự tham gia của đủ mọi tầng lớp, âm thầm có, công khai có. Trong trại B34, mình đã gặp các anh chị là nông dân ở Đà Lạt, do bị thu hồi đất mà không được bồi thường (nghĩa là bị ăn cướp giữa ban ngày) nên đã phải đứng lên chống lại cái thể chế chiếm đoạt. Mình còn nhớ chị Tám ở đèo Prenn. Chị kể do chị không chấp nhận bị cướp đất, công an đã đốn hạ 2000 cây cà phê của chị, đánh thuốc độc giết hết đàn heo nhà chị, con gái của chị ở bên ngoài bơ vơ lại còn phải đi thăm nuôi mẹ ngồi tù. Chị vừa kể vừa khóc…
Đâu rồi những lời tuyên bố đứng về phía người nghèo, người cùng khổ, người bị áp bức của những người cộng sản? Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” là như thế đấy ư?
Khi được tự do, mình lại thấy tin nông dân Văn Giang, Dương Nội… tiếp tục bị cướp đất; những người thẳng thắn bày tỏ chính kiến tiếp tục bị bắt bớ, đàn áp như anh Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh), blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào,…; những tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tù nhân tôn giáo tiếp tục bị ngược đãi; các anh chị em cùng vụ án với mình như anh Trần Huỳnh Duy Thức, anh Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), chị Tạ Phong Tần, anh Trần Anh Kim và nhiều anh chị em dân chủ khác vẫn đang ở trong tù.
Thế thì mình lại chỉ có một sự lựa chọn là “đứng về phe nước mắt”. Ngục tù không thể dập tắt được khao khát được sống trong một chính thể dân chủ, bảo vệ tự do, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của người dân Việt Nam.
Chợt nhớ lại những câu thơ bất hủ mà mình đã được đọc trong cuốn “Trò chuyện triết học” của triết gia Bùi Văn Nam Sơn:
Không! Bạo quyền chuyên chế có một giới hạn Khi kẻ bị đàn áp không biết tìm công lý ở đâu Khi gánh nặng trở nên không chịu đựng nổi Kẻ bị áp bức dũng cảm lên tận trời cao lấy xuống những quyền hạn vĩnh cửu của mình những quyền hạn bất khả xuất nhượng được treo lên trời cao và bất hoại như những vì sao… - Friedrich Schiller (1759 – 1805)
Dương Tường
Làm gì để cứu non sông?
Bảo Giang (Danlambao) - Hãy làm một công việc bé nhỏ nhất. Mọi người cùng tham gia phát động phong trào nói lên sự thật. Nghĩa là, người người bảo nhau, người biết nói cho người không biết. Người già nói cho trẻ cùng nghe là Hồ Chí Minh và đảng CS đã dẫn Tàu cộng vào chiếm nước ta. Rồi nhà nhà giáo huấn, trao đổi và bảo nhau về việc Tàu cộng đang xâm chiếm nước ta. Đồng thời nhắc nhở cho nhau về ý chí tru diệt kẻ xâm lăng và những kẻ mãi quốc càu vinh của cha ông ta...* Việt Nam, dẫu có đôi ba phen bị chia cắt. Cũng có lúc có hai, ba cơ chế công quyền khác nhau. Hoặc giả, có đôi lần bị đô hộ bởi ngoại bang, nhưng người Việt Nam xem ra vẫn luôn có được những điều đáng tự hào, đáng hãnh diện, hơn hẳn những sắc dân, hay những quốc gia đồng thời với mình từ khi lập quốc như: Tề, Hàn, Triệu, Sở, Tần, Tấn, Ngụy, Ngô, Việt (của Việt vương Câu Tiễn trong bách Việt) là chúng ta, dẫu là một sắc dân nhỏ sống rải rác ở phía nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng, bị đẩy dần về phương nam, nhưng vẫn còn một quốc thể, một ngôn ngữ, một văn tự, một nòi giống sống chung trên một giải đất hình chữ S mang tên Việt Nam, chạy dài từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu. Cộng với một biển đông xuôi theo chiều dài của bờ đất, vươn ra ôm lấy các đảo, và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không rời. Như thế, ta hãnh diện. Ta còn có một quê hương, một dân tộc đứng riêng ở cõi trời Nam là nhờ vào ý chí của tiền nhân qua nhiều đời luôn trung thành với hai nguyên tắc bất di bất dịch: Hy sinh vì đại nghĩa và tru di kẻ bán nước cầu vinh.
Tiếc rằng, bài sử ký này chỉ được người dân Việt Nam ở miền nam trân trọng học tập và thực hiện việc bảo vệ giang sơn của cha ông cho đến ngày 30-4-1975 là... chấm hết. Bởi vì, từ sau ngày quốc nạn 30-4-1975, và trước đó, từ 3-2-1930 đến 20-7-1954, tại miền bắc Việt Nam, dưới chế độ cộng sản, đã chẳng có sách vở nào được ghi chép, đã chẳng có người dân nào được phép nhắc nhở đến bản đồ địa lý mà cha ông ta để lại, cũng như chẳng ai được nhắc đến chuyện phạt Tống, bình Ngô, triệt Hán, diệt Thanh của cha ông ta nữa. Lý do:
Đảng cộng sản được thành lập từ 3-2-1930 với 7, 8 ủy viên tại Hồng Kông, nhưng đến năm 1941 đã chết sạch, ngoại trừ một mình Hồ tùng Mậu đang thọ án chung thân khổ sai ở cao nguyên, và một Trinh đình Cửu... mất tích, không một tin tức, không có một hoạt động nào đáng được ghi lại từ sau ngày thành lập cho đến khi ông ta chết sau này. Bỗng dưng, vào cuối năm 1938, Trung cộng cho một nhân vật có tên là Hồ Quang mang quân hàm thiếu tá trong Bát Lộ Quân của Chu Đức đóng ở Quế Lâm, Quảng Tây xuất hiện. Hồ Quang sau này được gọi là Hồ Chí Minh, về VN lãnh đạo đảng và nhà nước VNDCCH từ 1940-1969. Hồ Quang là một cái tên nghe lạ tai, nhưng thật ra đây là một trong số 169 cái tên gọi, bút hiệu, bút danh của HCM được nhà nước CSVN chính thức công nhận và công bố. Theo bản công bố này, Hồ Quang có một sơ yếu lý lịch về năm sinh, học vấn, hoàn toàn khác biệt với sơ yếu lý lịch của Nguyễn sinh Cung (Nguyễn ái Quốc) Tài liêu ghi nhận: “ Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc, thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ trách điện đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校 ----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语.
Theo bản lý lịch chính thức này thì Hồ Quang sinh năm 1901. Trong khi đó Nguyễn Sinh Cung sinh năm 1891. Thứ đến, Hồ Quang có sở học và nơi chốn học tập hoàn toàn khác biệt với lý lịch của Nguyễn Sinh Cung. Liệu việc giới thiệu Hồ Quang có phần lý lịch riêng trong danh sách 169 bí danh, bút hiệu của Hồ Chí Minh do nhà nước CSVN công bố, có dụng ý gì khác thường chăng? Liệu sự kiện này có phải là một hình thức gián tiếp giới thiệu về lý lịch thật của người mang tên HCM là chủ tịch đảng và nhà nước CSVN từ 1940-1969 hay không? Nếu không, thì nó mang một ẩn ý gì?
Trở lại chuyện của Hồ Quang. Từ sau khi xuất hiện, Hồ Quang được Trung cộng hỗ trợ và đưa về Việt Nam, đến khoảng tháng 8-1942 đổi là Hồ Chí Minh, bị bắt ở Túc Vinh vì giấy tờ đã hết hạn? Sau khi ra tù, Hồ Chí Minh trở lại Việt Nam và trở thành lãnh tụ của đảng cộng sản và chủ tịch của nhà nước VNDCCH từ 1945. Nhưng mãi sau này, khoảng 1948-49, sau khi biết chắc không còn một người Việt Nam nào hoạt động cùng thời kỳ trước 1930, hay thân nhân nào biết rõ về tông tích diện mạo của Nguyễn Ái Quốc còn sống, cũng như biết rõ, hồ sơ của y không thể bị tiết lộ từ phía cộng sản Liên Sô và Trung cộng, Hồ Chí Minh mới từ từ úp mở cho người ngoài biết y là Nguyễn Ái Quốc! Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động của Hồ Chí Minh và tập đoàn CS đều cúc cung phụng vụ cho Tàu cộng và ra sức thực hiện chủ nghĩa vô tổ quốc tại nước ta. Với chủ trương này, CS đã tuyên truyền và mở cuộc chiến tranh vào miền Nam với chiêu bài giải phóng dân tộc. Nhưng thực tế là thực thi những sách lược do Trung cộng đề ra như lời công bố của Lê Duẩn bí thư đảng cộng lúc bấy giờ là:“ cuộc chiến này là đánh đánh cho Trung quốc, đánh cho liên Sô” hay là “công việc của chúng tôi là phụ thuộc vào Mao chủ Tịch” (Lê Duẫn,).
Mặt khác, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cho Phạm Văn Đồng, người đang giữ chức Thủ tướng của nhà nước VNDCCH ký công hàm công nhận chủ quyền 12 hải lý thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa là thuộc Trung cộng theo bản công bố chủ quyền trên vùng lãnh hải lãnh thổ do Chu Ân Lai trước đó hai tuần lễ. Việc công nhận này đã gây ra một hậu quả nghiêm trọng cho chủ quyền về biển đảo của Việt Nam hiện trực thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam quản lý theo Hiệp Định 1954. Nó cũng là nguyên cớ làm cho hình dạng bản đồ địa lý của Việt Nam không ngừng thay đổi.
Trước tiên, về việc tranh chấp, định ước quốc tế “Estoppels” quy định rằng “Trong một tranh chấp cụ thể, vào một thời điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận hay đồng ý ngầm, hoặc công nhận chủ quyền của một bên khác đối với một vùng lãnh thổ đang tranh chấp, thì sự công nhận hoặc đồng thuận đó có hiệu lực pháp lý.” Ai cũng biết, Trung cộng đã từng mưu toan gây tranh chấp về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam sau đệ nhị thế chiến. Tuy nhiên, trong hội nghị San Francisco năm 1951, dù được Nga bảo trợ, Trung cộng đã hoàn toàn thất bại trong việc tranh chấp chủ quyền với 3 phiếu thuận và 47 phiếu chống. Sau cuộc bỏ phiếu này, trưởng phái đoàn và cũng là Thủ Tướng đương nhiệm chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Hữu đã tái công bố chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Lời công bố của TT Hữu không có bất cứ một đại biểu nào trong 51 phái đoàn được mời đến để tham dự Hội nghị này, kể cả Liên Sô và người đại diện của Trung cộng lên tiếng bác bỏ. Theo nguyên tắc, chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa là không thể có tranh cãi nữa. Tuy nhiên, Trung cộng dường như chưa bao giờ từ bỏ cuồng vọng bành trướng, nên không muốn tuần thủ những quy định mang tính quốc tế từ hội nghị này.
Theo đó, việc Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung cộng theo công bố của Chu Ân Lai (1958) trên những vùng lãnh hải, lãnh thổ này, dù không phải là đơn vị có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền này theo Hiệp Định Geneve 1954, đã đặt Việt Nam vào tình trạng có thể mất Hoàng Sa, Trường Sa vào tay Trung cộng. Hoặc ít nhất, là VNDCCH tự cho mình quyền đại diện cho Việt Nam để từ bỏ quyền chủ quyền thuộc vùng lãnh hải và lãnh thổ này cho Trung cộng chiếm giữ theo định ước Estoppel. Bởi vì theo định ước này diễn giải, “một khi bên nào đã đồng ý, hoặc đã công nhận chủ quyền đang tranh cãi thuộc về phía bên kia thì sẽ không thể bác bỏ chủ quyền của bên kia đối với vùng lãnh thổ đó sau này. Trái lại phải tôn trọng chủ quyền của bên kia”. Lời giải thích này đã hoàn toàn đẩy VNDCCH và kế thừa của nó là CHXHCNVN ra khỏi cuộc tranh chấp với Trung cộng về Hoàng Sa, Trường Sa. Hơn thế, việc Phạm Văn Đồng còn làm Thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất sau khi họ xóa bỏ hiêp định Geneve và Paris để chiếm đóng miền Nam bằng bạo lực vào ngày 30-4-1975, và không hề có bất cứ một lời nói, một văn thư nào đá động đến việc tiếp quản chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam theo Hội Nghị quốc tế San Francisco và Hiệp định Geneve 1954 làm cho Việt Nam mất dần tiếng nói đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là một sự im lặng tồi tệ, đáng nguyễn rủa vì nó đã đồng lõa với nội dung bản công hàm mà chính y đã ký trước kia.
Tuy thế, không phải một mình Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẫn, hay Trường Chinh theo đuổi chủ trương bán nước, thờ Tàu. Trái lại, sau những kẻ mở đường này là đến Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Nguyễn Mạnh Cầm, Lê Đức Anh, Phan Văn Khải... qua hai Hiệp định, Hiệp thương biên giới vào 1999 và 2000 là 796 km2 đất giáp ranh biên giới với Trung cộng thuộc các vùng Bản Giốc, Nam Quan, Lão Sơn, Tục Lãm và gần 3/4 diện tích Vịnh Bắc bộ đã bị chúng ký bán cho Trung cộng với giá là 2,5 tỷ đô la như một số tin tức rò rỉ và lan truyền trên báo chí. Từ đó, Việt Nam đã mất hẳn những vũng đất này, và không ai còn được nhắc đến nữa! Nếu mai sau, có một thể chế mới muốn tìm lại cái cọc mốc của biên giới đã được ký kết phân ranh giữa Việt Nam với Mãn Thanh vào năm 1883 thì cũng chẳng còn tìm ra dấu tích nó nằm ở đâu nữa. Tệ hơn, nếu cộng sản còn tồn tại trên phần đất này, không biết sau 5, 10 năm nữa con cháu ta phải học bài sử ký ghi chép ra sao? Bởi vì dưới thời của những cái tên Mạnh, Kiệt, Dũng, Trọng, Sang, Hùng, Lưu, Luận, Hải... thì không còn phần đất nào của Việt Nam thiếu dấu chân đi lại của quan cán Trung cộng, và không biết là có bao nhiêu khu rừng, vùng biển hay những nơi gọi khu đặc cư, những khu làng Tàu, cơ sở thương mai, kinh doanh cho riêng Tàu nhân, mọc lên như nắm ở trên nước Việt. Trong lúc người dân Việt lầm than, lang thang không có vài mét đất làm cái lều để sinh sống!
Có nước mắt nào của người Việt Nam không rơi xuống trước thảm cảnh này không? Hỏi xem, tại sao cha ông ta trải qua hàng nghìn năm trong những nỗi khó khăn tột cùng vẫn để lại cho con cháu được phần di sản thiêng liêng to lớn như thế, mà nay con cháu sao mà tệ?
Tôi cho rằng, con cháu cũng chẵng tệ gì lắm. Tuy nhiên, sau gần 70 năm bị bào mòn bởi bởi ý thức vô tổ quốc của CS, thế hệ lớn thì vị tư kỷ thành ích kỷ, lớp trẻ thì không được giáo dục về lòng yêu quê hương, yêu đồng bào một cách đứng đắn. Cộng với một cuộc tàn phá tôn giáo và luân thường đạo lý do Việt cộng thực hiện, đã tạo ra một xã hội với những sinh hoạt bát nháo, hỗn mang, đầy tính lọc lừa vô đạo, làm cho lòng người thêm chán nản, mất niềm tin. Họ đành phải sống chụp giựt, buông xuôi, tư kỷ thành ích kỷ. Đã thế, họ không được nhắc nhở, thấm nhuần giáo huấn của tiền nhân ta trong công cuộc giữ nước và kiến quốc là nuôi lòng hy sinh vì đại nghĩa và dứt khoát tru di những kẻ mãi quốc cầu vinh, mà nên nỗi!
1. Hy sinh vì đại nghĩa dân tộc
Phải nói ngay rằng, người dân như một thúng bột tinh nguyên. Bột không có nước quyện vào, chỉ cần một cơn gió nhẹ lướt qua, bột sẽ bay đi và vương vãi khắp nơi. Lòng hy sinh vì đại nghĩa của người dân cũng thế. Nếu không được giáo dục về lòng yêu nước thương nòi một cách nhân bản, nhân văn, đứng đắn theo lịch sử để gắn kết lại với nhau, chỉ cần những biến động nhỏ, lòng người đã ly tán. Nhưng nếu lòng dân luôn được nhào nặn và nuôi sống bằng tinh thần nhân bản, bằng ý thức tổ quốc thì nó luôn kết hợp với nhau, dẫu có là giông bão, biến động, bột cũng không lìa khỏi thúng! Theo cách nhìn này, lòng hy sinh vì đại nghĩa dân tộc trong lòng người Việt Nam lúc nào cũng có và có đầy ắp. Đặc biệt, sẽ phát huy thành sức mạnh lớn để bảo vệ sự trường tồn của quê hương. Nhưng xem ra là rất dửng dưng trước những tranh chấp của các phe phái. Đó là điều rất đáng quý và cha ông ta đã biết cách chỉ tên kẻ thù, biết cách biến lòng hy sinh này thành những ngọn sóng thần, vùi dập tất cả những thế lực binh cường tướng mạnh từ Tống, Minh, Hán, Nguyên, Thanh khi chúng xâm phạm bờ cõi Việt Nam.
Nay, không phải lòng hy sinh vì đại nghĩa của dân ta không còn, nhưng một phần bị chính những kẻ bán nước cầu vinh triệt hạ. Bị triệt hạ bằng những thủ đoạn đê hèn, hay bằng những ngôn từ lừa dối như tình hữu nghị, láng giềng tốt khi đưa rước giặc vào nhà. Một phần vì người dân dửng dưng, chán ngán với những ngôn từ của các đảng phái, hay của các nhóm đấu tranh, đôi khi lạm dụng cả danh nghĩa của tôn giáo, làm người dân mất hướng, không nhận diện được kẻ thù đích thực của dân tộc. Kết quả, người dân lui dần vào cuộc sống tự kỷ, buộc phải lo cho mình hơn là cho việc bao đồng, bị lợi dụng.
Về chuyện này ta không thể trách ai, nhìn lại cuộc sinh hoạt tại miền nam trước khi mất nước, dẫu là trong lúc chiến tranh, dân số không bao nhiều mà cũng có tới mấy chục đảng phái và tổ chúc đấu tranh xuất hiện. Có người cho rằng, sở dĩ ta có nhiều đảng phái, tổ chức là vì “ ta” không quen làm đảng... phó, hay phó thủ lãnh! Kết quả, người dân chẳng còn lỗi tai nào để mà phân biệt đúng sai. Trống một nơi, chiêng một nẻo. Sang đến chế độ cộng sản, lại là một nỗi kinh hoàng khác. Trăm lời nói, trăm việc làm không có được lấy một điều thật, điều nhân nghĩa! Tất cả là giả dối, lưu manh phản trắc. Duy chỉ có cái búa cái liềm của chúng là bằng sắt thép thật và cũng là thước đo công lý! Từ đó, một tên tội đồ ác độc hạng nhất trong lịch sử, từng cho người giết vợ, quăng xác ra đường giả làm tai nạn lưu thông, cũng có thể được chúng biến thành một “cha già” dân tộc với đàn cao, hương án. Tệ hơn, chúng còn phỉ báng tôn giáo bằng cách ép, đem cái đầu lâu của Y vào nhà chùa, vào đền miếu, bày trò cúng bái để kiếm lấy phần sôi, phần bổng lộc! Với một cuộc sinh hoạt bát nháo như thế mà gọi là “chính phủ” thì người dân không muốn lui vào trong tự kỷ cũng không có đường chọn lựa khác!
2. Tru di những kẻ bán nước cầu vinh
Hình như cha ông chúng ta giỏi nhận ra chân tướng của những kẻ bán nước cầu vinh và cũng dứt khoát với những thành phần này hơn chúng ta. Điển hình là những trường hợp của Thống soái Ngô Vương Quyền trảm Kiều Công Tiễn trước khi đóng cọc nhọn xuống Đằng Giang để tiêu diệt quân Hán,. Hay tể tướng Lữ Gia, tập hợp gia nhân binh lực để khu trù Cù thị cứu nước. Rồi những Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung. Lê Chiêu Thống cũng chịu chung một số phận. Trong khi đó, xem ra trong chúng ta lại không thể phân biệt được giả chân. Kẻ tội đồ của dân tộc được phe đảng của chúng đắp tượng đưa vào chùa để kiếm phần sôi, phần bổng lộc đã đành, nhưng phe “ta” lại có những kẻ tự cho mình là trí thức, có những mảnh bằng to hơn bàn tay. Hoặc giả, là lãnh tụ đảng phái, đoàn thể hay tôn giáo. Lúc trước khi chưa mất miền nam thì phá rối, thông đồng với giặc bằng cách này hay cách khác để đấu với tranh, bức tử Đệ Nhất Cộng Hòa, để đưa đến cái chết của Tự Do vào ngày 30-4-1975. Sau đó người thì bị cộng sản rọ miệng, kẻ ra hải ngoại, khi ra ngoài, tưởng họ làm được những điều hữu ích cho dân, lên tiếng vạch ra những tội ác của chúng để cho người dân nhận diện ra kẻ bán nước cầu vinh. Không ngờ, lại vì cái bả hay mộng vinh hoa hay sợ người đời quên mất tên mình, nên phải làm sớ, làm kiến nghị “dâng kế” cho cộng sản với ngôn ngữ giả tạo “ dâng kế sách cho CS thực hiện để cho dân mình bớt khổ”. Hỡi ơi cái đầu gối! Nếu CS muốn dùng những lương sách để làm cho dân bớt khổ đau thì chúng đã làm từ lâu rồi, cần gì đến cái bản kiến nghị nhố nhăng ấy!
Khi viết ra những lời này, tôi thực lòng, không chỉ trích, hay bóng gió một ai (nếu ai cảm thấy bị xúc phạm, tôi thành thật xin lỗi trước). Tôi chỉ muốn dẫn chứng một điều. Chúng ta vẫn chưa nhìn ra được kẻ thù của dân tộc là ai. Trái lại, chỉ loanh quanh, nay bảo là gia đình trị họ Ngô. Mai lại bảo, khéo là ông... Thiệu, hoặc giả, là Hồ Chí Minh và tập đoàn CS. Một khi, chúng ta chưa đồng nhất chỉ ra được kẻ thù của dân tộc là ai, ở đâu, người dân Việt Nam cũng chưa thể có đối sách, chưa thể có hướng đi, chưa thể có hành động để thoát ra khỏi con đường vòng quanh, tăm tối ấy. Theo đó, tôi cho rằng, nếu muốn tìm ra con đường, tìm ra phương thức hành động thích ứng cho Việt Nam, tất cả mọi người, không trừ ai, phải nhận diện được kẻ thù của dân tộc là ai, ở đâu. Khi chúng ta đã nhận diện được kẻ thù của dân tộc thì kế sách vẹn toàn của cha ông ta đã có sẵn, cứ thế mà thi hành để cưu quốc và kiến quốc. Chuyện mười năm không thành thì hai, ba mươi năm phải thành..
3. Hồ chí Minh là ai? Y có phải là kẻ tội đồ đã mở đường cho Tàu vào xâm lấn nước ta và gây ra cảnh cùng khốn cho dân ta hôm nay không?
Như ở phần trên tôi đã viết. Hồ Quang là một cái tên khác của Hồ Chí Minh với lý lịch như sau): “Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc /thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ trách điện đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语.
Trong khi đó, Nguyễn Sinh Cung, cũng gọi là Nguyễn Tất Thành, người làng Kim Liên, Nam Đàn, sinh năm 1891. Theo tài liệu của sở mật thám Pháp thì Nguyễn Sinh Cung đã chết vào năm 1933 vì bệnh lao phổi. Nay theo ông Phạm Quế Dương cho biết, Nguyễn Ái Quốc, đã chết vì bệnh lao tại Hồng Kông với những phần ghi chú như sau: “Tác giả Hùynh Tâm cũng là người Trung quốc (trong tập tài liệu dầy 141 trang) xác định Hồ chí Minh là Hồ tập Chương. Tài liệu viết: Theo hồ sơ của nhà tù Hương Cảng, Nguyễn Tất Thành đang lâm nguy bởi nhiều bệnh do trác táng, say đắm phong trần làm cơ thể hao mòn, mang bệnh truyền nhiễm cấp độ cao hết thuốc trị liệu... Năm 1832 Nguyễn Tất Thành qua đời tại nhà tù Hương Cảng, hưởng dương 40 tuổi (1892-1932). Người thân (tên Hồ Vinh - Nguyễn Vinh) đến nhận xác và tất cả vật dụng cá nhân của tử tù và đem đi hỏa táng. Tro cốt của Nguyễn Tất Thành mà số 00567, lưu trữ tại nghĩa trang Kuntsevew Moscow Russian... Tài liệu này được lưu trữ tại nhà tù Hương Cảng”.
Dĩ nhiên là chúng ta không hoàn toàn tin vào tài liệu này. Bởi vì khi “họ” cho ám số về tro cốt, chúng ta yêu cầu xét nghiệm tro cốt này bằng DNA thì có thể vấp ngã lớn vì có thể bị lừa. (bởi vì nó sẽ không trùng khớp với Nguyễn Sinh Khiêm). Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng không thể có cách chứng minh Y là Hồ Quang và cũng là Nguyễn Sinh Cung. Bởi lẽ hai người có hai bản sơ yếu lý lịch hoàn toàn khác nhau. Tôi không thể đồng ý với ý kiến lập luận rằng, Hồ Quang chỉ là một tên gọi khác của Hồ Chí Minh như hằng trăm tên khác do nhà nước CSVN sưu tầm và công bố, có gì là không đúng, có gì cần thắc mắc”. Có, nó có chỗ không đúng và có chỗ đáng thắc mắc. Bởi vì trong tất cả 169 cái tên kia không một cái tên nào có lý lịch riêng. Đó thuần tuý là bút hiệu, bút danh hay tên gọi có thể là của một người (hoặc nhiều người bị tước đoạt và được gán cho Hồ Chí Minh) Riêng cái tên Hồ Quang có sự khác biệt. Đó là một nhân sự có sơ yếu lý lịch riêng, có quân hàm có đơn vị, có địa bàn hoạt động trong hàng ngũ bộ đội của Trung cộng. Nó hoàn toàn không phải là một bí danh. Nhưng là một người khác. Trường hợp cho rằng vì phải dấu thân phận trong cuộc vận động chính trị cũng khó chấp nhận. Bởi lẽ, nếu cần dấu thân phận thì chỉ cần một cái tên, cấp bậc là đủ, không càn phải có sơ yếu lý lịch, sở học, nghề nghiệp, nơi sinh hoạt một cách rõ ràng công khai hóa như thế. Nếu cho đó là một cái sơ yêu lý lịch giả thì bản thân của Hồ Chí Minh cũng là giả nốt. Chẳng có gì là sự thật. Và y có thể là người Tàu giả làm người Việt Nam?
Ngoài ra, cũng theo tài liệu này do ông Phạm Quế Dương ghi lại: “cũng có ghi chú về gia phả và sự nghiệp của Hồ Tập Chương trong hồ sơ HTC4567 lưu trữ tại quân ủy trung ương (CPC) và tình báo Hoa Nam Trung quốc như sau: “Đương sự được đảng cộng sản trung quốc huấn luyện hơn một thập niên tại Học viện Hoàng Phố, Vân Nam... Kết quả, Trung quốc dốc hết nhân lực, tài khí tài vật lập ra một thế lực mới tại Việt Nam và tình báo Hoa Nam thổi lên một Hồ chí Minh làm chủ tịch nước VNDCCH”. Cùng nguyên tắc, chúng ta không hoàn tin và bám vào những tài liệu này làm chứng cứ. Nhưng chỉ tin vào một điều chắc chắn là, dù là Hồ Tập Chương hay là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Quang khi làm lãnh tụ đảng cộng sản và là chủ tịch nước VNDCCH đã là một mối đại họa cho Việt Nam. Đối nội thì y thủ tiêu những nhà ái quốc Việt Nam, và tàn sát dân chúng qua những cuộc đấu tố, mở rộng chiến tranh vào miền Nam. Rồi tạo nên một xã hội không còn luân thường đạo lý. Đối ngoại thì liên hệ với kẻ thù của dân tộc. Bán đất dâng đảo cho chúng để nắm lấy công quyền. Chỉ bấy nhiêu, cũng đủ để y được liệt kê vào thành phần thủ lãnh của Kiều Công Tiễn, Cù Thị, Trần Ích tắc, Lê Chiêu Thống, Mạc Đăng Dung... Đối với thành phần này, di chiếu của tiền nhân ta còn đây. Muốn cứu quốc và kiến quốc thì phải dứt khoát tru di những kẻ bán nước cầu vinh. Ngoài ra không có một phương cách nào khác.
4. Làm gì để cứu non sông đây?
Một điều cần khẳng định là, dù Hồ Quang là người Tàu hay là người Việt thì y vẫn là một thiếu tá trong đội quân của CS Trung cộng trước khi xâm nhập vào hệ thống CSVN với chủ đích lũng đoạn và tìm cách đưa Việt Nam vào làm chư hầu cho Trung cộng. Âm mưu này đã đuợc cộng sản Trung cộng che chắn và bảo vệ cẩn thận suồt thời kỳ 1940-1969 và sau đó. Tuy nhiên, bộ mặt thật và những việc y làm lợi cho Trung cộng đã lộ diện. Người Việt Nam không nên nghi ngờ gì về trường hợp của Hồ Chí Minh nữa. Trái lại, phải dứt khoát đi thôi!
Trong tay chúng ta không có một tấc sắt thì làm được cái gì?
Hãy làm một công việc bé nhỏ nhất. Mọi người cùng tham gia phát động phong trào nói lên sự thật. Nghĩa là, người người bảo nhau, người biết nói cho người không biết. Người già nói cho trẻ cùng nghe là Hồ Chí Minh và đảng CS đã dẫn Tàu cộng vào chiếm nước ta. Rồi nhà nhà giáo huấn, trao đổi và bảo nhau về việc Tàu cộng đang xâm chiếm nước ta. Đồng thời nhắc nhở cho nhau về ý chí tru diệt kẻ xâm lăng và những kẻ mãi quốc càu vinh của cha ông ta. Ý chí này nếu hôm nay chưa thực hiện được thì ngày mai cũng sẽ. Đừng sợ hãi, đừng e dè. Ngày nay không còn là thời con cái trong nhà đi tố cha mẹ anh em mình. Không phải là lúc hàng xóm láng giềng, bạn bè tố cáo chúng ta về những lời nói này với công an, với cán bộ nhà nước để kiếm sống. Dẫu có cũng chẳng hệ gì. CS có thể bắt được trăm người, thậm chí, vài ngàn người, nhưng không thể bắt hàng triệu triệu người. Như thế, tuyên ngôn sự thật sẽ được truyền đến mọi người, mọi nhà, mọi chân trời góc bể. Kẻ xâm lược nhất định thua, kẻ bán nước nhất định sẽ bị tru diệt.
Hỡi những người đã từng được gọi là anh hùng vượt biển đông. Những người đã đạp trên cái chết mà đi sau 30-4-1975, những người đã làm cho cả thế giới xúc động và ngưỡng mộ vì lòng can đảm khi vượt biển trên chiếc thuyền mong manh. Nay, nếu cần về Việt Nam thì cứ về. Chỉ xin quý vị về với 1/100 lòng can đảm của lúc ra đi. Hãy về và nói cho thân nhân và người quen biết sự thật là Hồ Chí Minh, và cộng sản đã đưa Tàu cộng vào chiếm nước ta. Hãy nói cho bà con của mình nghe về nhân quyền của con ngưòi đích thực là như thế nào. Đừng hèn nhát, đừng cúi đầu như một kẻ tội phạm, đừng dùng năm ba đồng để bán rẻ cái nhân phẩm của mình khi đút lót cho nhân viên trong các trạm kiểm soát từ phi trường. Đừng dùng năm ba đồng, vài chai bia, lon nước cho cán bộ khu vực để được nghênh ngang nơi minh về thăm. Bởi vì, nào có phải là ta “áo gấm về làng” đâu? Ta về đây là về vì tình ruột thịt với thân nhân, với dân làng, với nước non. Là chia xẻ nỗi bất hạnh với đất nước. Như thế, có gì đáng để khoa trương Việt kiều? Mà chúng ta cũng có phải là Việt kiều đâu? Chúng ta là người tỵ nạn chính trị cộng sản đấy. Ta có phải là người của chế độ đưa đi sinh sống tại nước ngoài và chấp nhận quyền lãnh đạo của họ đâu? Trái lại, ta đi vì Tự Do khi quê hương ta gặp đại nạn cộng sản. Nên khi về, xin hãy về bằng khí phách, bằng ý chí mãnh liệt “đem nhân nghĩa thắng hung tàn” đem sự thật về góp phần vào việc cứu non sông. Có thế sự ra đi của chúng ta mới có ý nghĩa.
Chỉ nói bấy nhiêu thôi ư?
Vâng, chỉ bấy nhiêu thôi, ta chỉ cần làm công việc nhỏ bé thôi. Việc tuy nhỏ, nhưng xem ra lại là con đường duy nhất để chúng ta cứu lấy non sông và dân tộc trong giai đoạn này. Bởi vì, khi có được 70% dân số nước ta biết rõ bộ mặt Tầu của Hồ Chí Minh, biết rõ bộ mặt thật của cộng sản là tập đoàn bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Cù Thị, Kiều Công Tiễn... thì cơn hồng thủy tru di kẻ bán nước lập tức nổi lên và người Việt Nam yêu quê hương, trọng nhân bản sẽ đứng cao trên đỉnh chiến thắng vinh quang. Kẻ bán nước sẽ bị triệt tiêu. Đó chính là cái nghĩa của con đường tay không tấc sắt chống bạo tàn. Đường đi có thể dài năm năm, mười năm hay hơn nữa, nhưng chắc chắn sẽ tới, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng và ý chí của tiền nhân sẽ được thực hiện. Trái lại, sự giữ yên lặng của chúng ta, cuộc đi về bằng sự hèn nhát sẽ là những hành động đồng lõa với những kẻ bán nước cầu vinh, và dâng đất nước của tiền nhân vào tay Tàu cộng.
Tháng 7-2014
Việt Nam cần thay đổi thể chế để bảo vệ đất nước
Huỳnh Ngọc Tuấn (Danlambao) - Ngày 01/7/2014 vừa qua chính phủ Nhật bản đã có một quyết định quan trọng là thay đổi học thuyết quốc phòng từ chổ chỉ được quyền phòng vệ cá thể như quy định của Hiến pháp Nhật từ sau đệ nhị Thế chiến đến nay sang quyền được Phòng vệ tập thể mở đường cho Nhật bản tham chiến cùng các nước đồng minh trong tình huống chiến tranh, mục đích tối hậu là để đối phó với một Trung cộng đang trở nên tự tin quá mức..
Sự phát triển như vũ bão của Trung cộng về kinh tế và quân sự cộng với tham vọng bá quyền cố hữu của đất nước khổng lồ này đặt Mỹ, Nhật, Úc và các nước trong khu vực đông Á vào tình thế bị đe dọa trước mắt và lâu dài buộc các nhà hoạch định chính sách của những quốc gia này phải có một tầm nhìn thực tế hơn về tính mong manh của hòa bình và ổn định trên thế giới và chiến lược chuyển trục của Hoa kỳ đang thực hiện là một đáp ứng theo chiều hướng đó.
Sự đồng hành của Mỹ và Nhật như báo trước một sự thay đổi về cấu trúc an ninh khu vực sẽ xảy ra trong thời gian sắp tới và Việt nam của chúng ta sẽ có vị trí nào trong cấu trúc đó là một câu hỏi lớn đối với nhân dân VN và những người quan tâm đến thời cuộc trong đó có những nhà đấu tranh cho dân chủ đang rất lo lắng cho vận mệnh quốc gia.
Trong thời chiến tranh lạnh hai khối Tự do và Cộng sản đối đầu, Việt nam Cộng hòa (bất đắc dĩ) trở thành tiền đồn của khối Tự do ngăn chận sự bành trướng về hướng nam của khối Cộng sản.
Thời điểm này Mỹ lo ngại Trung cộng sẽ xua 500 triệu nông dân Trung quốc tràn ngập Đông nam Á như lời đe dọa của Mao Trạch Đông với Học thuyết chiến tranh “cài răng lược” để vô hiệu hóa ưu thế về hỏa lực của Mỹ như ý đồ của đảng CS Trung hoa. Vậy là Mỹ đã lập phòng tuyến để “be bờ”, VN trở thành chiến trường cho tranh chấp của hai khối.
Ngày hôm nay lịch sử đang lập lại, TC đang trên đà phát triển vũ bão với nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, với dự trữ ngoại tệ trên 3ooo tỷ Mỹ kim, với công nghệ quốc phòng tiên tiến đang thu hẹp rất nhanh khoảng cách với các nước Phương Tây tạo ra một hiểm họa chưa từng có đối với Nhật bản, Việt nam và các nước khác trong khu vực và trong tương lai không xa là hiểm họa của chính Úc và Mỹ…
Thời chiến tranh lạnh VNCH là một quốc gia Dân chủ nên việc hội nhập vào một liên minh phòng thủ chung không có trở ngại gì, và việc gia nhập Liên minh phòng thủ với các nước trong khối Tự do cũng giúp VNCH bảo vệ được đất nước, bảo vệ được nền tự do trong một giai đoạn chiến tranh máu lửa.
Thời thế hiện nay đã khác xưa rất nhiều về cả hình thái chiến tranh lẫn vũ khí và quy mô cuộc chiến cùng ảnh hưởng của nó lên tương lai khu vực và cả nhân loại.
Nếu như trước đây VNCH có thể tự vệ được trong điều kiện đồng minh Hoa Kỳ viện trợ đầy đủ như Nga- Tàu đã viện trợ cho CS Bắc Việt, nhưng ngày hôm nay với sức mạnh khủng khiếp của quân đội và vũ khí TC khiến cho Nhật bản là một quốc gia công nghiệp giàu có hàng đầu thế giới cũng phải dựa vào chiếc ô an ninh của Mỹ và phương thức phòng vệ tập thể thì VN chúng ta không có lý do gì để đứng ngoài một liên minh quân sự của khối Dân chủ do Mỹ lãnh đạo.
Việc tham gia liên minh phòng thủ trước mắt đáp ứng nhu cầu bức thiết của chúng ta là bảo vệ quốc gia và sau đó là góp phần vào việc phòng thủ chung để ngăn ngừa chiến tranh nhưng trong mối tương quan này chúng ta cần Mỹ và các nước dân chủ hơn Mỹ và các nước dân chủ cần chúng ta..
Người Mỹ đang thiết lập một vành đai an ninh bao quanh TC từ bắc xuống nam, bắt đầu từ Hàn quốc qua Nhật bản đếnPhilippines, xuống Mã lai, Nam Dương và Singapore, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy dấu hiệu rõ ràng rằng người Mỹ muốn cộng sản VN đóng một vai trò gì và như thế nào trong cái vành đai an ninh đó và CSVN cũng không hề có chỉ dấu nào là muốn tham gia vào một liên minh phòng thủ chung để được bảo vệ. Việc này sẽ đẩy đất nước vào thế đơn độc đối đầu với TC, nếu TC đơn phương hành động trong lúc này khi VN chưa được ai bảo vệ như Ukraina đã tạo điều kiện cho Nga xâm chiếm Crimea.
Nhận thức được nguy cơ từ Trung cộng Philippines đã nhanh chóng có những hành động cụ thể như cho phép quân đội Mỹ có mặt gần như thường trực tại Phi với một loạt căn cứ quân sự hùng hậu, trong khi đó VN bị TC đe dọa nặng nề hơn mà vẫn tiếp tục chủ trương “không liên kết” thì quả là khó hiểu…!
Để giải thích cho việc VN vẫn đang còn đứng ngoài một liên minh phòng thủ khu vực có hai khả năng:
-Thứ nhất VN vẫn là một chế độ CS độc tài không chia xẻ cùng một giá trị với Hoa kỳ và đồng minh dẫn đến sự nghi ngờ, hơn nữa trong tương quan với TC và Hoa kỳ thì CSVN gần gũi hơn với TC về ý thức hệ và mục tiêu chiến lược, mối quan hệ Trung –Việt vẫn còn ẩn chứa nhiều nghi vấn vì những thỏa thuận ở Thành Đô mà cho đến nay chưa được giải mật.. Ngày nào VN chưa thay đổi thể chế, thay đổi học thuyết quốc phòng, đoạn tuyệt với quá khứ CS thì việc gia nhập liên minh với Mỹ là không thể thực hiện được vì có thể chính phủ Mỹ vì lợi ích thực dụng họ đồng ý vô điều kiện để CSVN tham gia liên minh, nhưng với Quốc hội Mỹ điều này khó chấp nhận được.
-Thứ hai có thể Hoa kỳ không cần thiết có thêm VN trong vành đai an ninh đã được thiết lập vì vị trí trọng yếu củaPhilippines đã thay thế một cách hoàn hảo cho VN trong sự bố phòng chiến lược?...
Nếu đúng như vậy thì rất nguy hiểm cho dân tộc VN vì có thể Mỹ và đồng minh không cần VN trong vành đai an ninh của mình nhưng TC thì rất cần vị trí chiến lược của VN trong chiến tranh “chống tiếp cận”, vì hệ thống cảng biển VN từ Đà nẵng, Dung Quất đến Cam Ranh, Vân Phong và Vũng Tàu sẽ tạo ưu thế quân sự cho Tc nếu họ kiểm soát được những vùng đất hiểm yếu này để triển khai khí tài quân sự mở rộng không gian chiến tranh làm phân tán hỏa lực của Mỹ và đồng minh. Như vậy VN vừa mất chủ quyền vừa mất an ninh…
Xét theo lập luận này thì việc Mỹ và đồng minh mở cửa cho VN tham gia khối quân sự sẽ vô hiệu hóa hình thái “chiến tranh chống tiếp cận” của TC và ưu thế chiến lược sẽ nghiên về phía Mỹ. Riêng với Nhật bản việc VN tham gia liên minh sẽ rất có lợi cho họ vì sẽ phân tán hỏa lực của TC một khi chiến tranh nổ ra, “chia lửa” cho Nhật bản và làm cho TC bị bao vây ở nhiều mặt giúp cho việc phòng thủ và tấn công của liên minh thuận lợi hơn rất nhiều.
Nhìn nhận trong góc độ này thì vị trí chiến lược của VN là cực kỳ quan trọng mà cả Mỹ - Nhật và Trung cộng không thể bỏ qua.
Hiện tại chúng ta chưa thể xác quyết được điều gì, chúng ta chỉ hy vọng rằng người Mỹ sẽ hành động có trách nhiệm với nhân dân VN. Hy vọng người Mỹ và Nhật hiểu cho rằng chỉ có một chính phủ dân chủ do nhân dân chọn lựa qua cuộc bầu cử tự do mới đủ tính chính danh để đàm phán với họ về việc VN gia nhập khối phòng thủ chung, mọi thỏa hiệp của CSVN với các nước kể cả Hoa kỳ sẽ không có giá trị và nó sẽ bị hủy bỏ một khi CS sụp đổ, mà CS sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Mỹ và Nhật nên đồng hành với nhân dân VN chứ không nên đồng hành cùng CSVN, vì CSVN chỉ là một giai đoạn trong lịch sử dân tộc VN…
Về phía VN, chúng ta không có lý do hay lợi ích gì khi can dự vào tranh chấp quyền lực của các siêu cường, chỉ vì ngày hôm nay chủ quyền quốc gia và sinh mệnh dân tộc Việt bị đe dọa cho nên chúng ta mới chấp nhận rủi ro tham gia vào một liên minh phòng thủ. Trên đời này mọi sự cao quý đều có giá của nó, việc bảo vệ tổ quốc đương nhiên phải trả bằng máu của chính dân tộc mình.. để tồn tại chúng ta phải chiến đấu và hy sinh không có sự chọn lựa nào khác.
Nhưng sự chiến đấu và hy sinh này của dân tộc Việt phải được bảo đảm bằng cái giá của tự do cho cả dân tộc, chúng ta không chiến đấu để duy trì chế độ độc tài, một chế độ đã làm ung thối đất nước, đặt đất nước vào tình thế hiểm nghèo vì một “mối tình hữu nghị viễn vông” như chính ông Thủ tướng CS Nguyễn tấn Dũng đã nhìn nhận.
Thêm một lần nữa khẳng định: Để bảo vệ sự trường tồn của dân tộc và quốc gia, mở ra lộ trình canh tân đất nước, VN phải thay đổi thể chế từ độc tài sang dân chủ, chỉ có như vậy mới đoạn tuyệt được ý thức hệ CS nguyên nhân của mọi sai lầm và bi kịch, mới thay đổi được học thuyết quốc phòng tự cô lập, chủ động tham gia liên minh phòng thủ khu vực do Mỹ lãnh đạo.
Đây cũng chính là cơ may cuối cùng để gìn giữ hòa bình, nhưng phải là một nền hòa bình trong sự tôn trọng tự do và phẩm giá dân tộc, hòa bình trong thế mạnh.
09/7/2014
__._,_.___
Vụ 6 ngư dân bị TQ bắt : Việt Nam lúng túng do không có chiến lược rõĐòi hỏi chủ quyền của các quốc gia ven Biển Đông. Source : US defense department Việc công dân Việt Nam hoạt động ngư nghiệp tại Biển Đông bị Trung Quốc bắt giữ xảy ra thường xuyên. Sau vụ 6 ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt ngày 03/07/2014, trong công luận Việt Nam, có nhiều câu hỏi về phản ứng chậm trễ của chính quyền, đặc biệt là sự bất lực của chính quyền trong việc xác định vị trí tọa độ trên biển nơi công dân mình bị bắt. Ngày 10/07, chính phủ Việt Nam mới có thông tin chính thức về tình trạng sức khỏe và nơi các ngư dân bị giam giữ.Theo phía Trung Quốc, tàu Việt Nam bị bắt giữ do "tác nghiệp phi pháp trong vùng nội thủy lãnh hải Trung Quốc". Mới đây nhất, hôm nay 12/07, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo 7 ngư dân tỉnh Quảng Bình hiện đang bị Trung Quốc giam giữ cũng tại đảo Hải Nam. Theo thông tin từ địa phương, tàu cá QB 93256TS bị vây bắt hồi giữa tháng 6/2014, khi đang hành nghề cùng một tốp 50 đến 60 tàu Việt Nam khác. Về chủ đề ngư dân bị Trung Quốc bắt tại Biển Đông và phản ứng của chính quyền Việt Nam, RFI đặt câu hỏi với Luật gia Hoàng Việt, thành viên Ban nghiên cứu Luật Biển, Liên đoàn luật sư Việt Nam. RFI : Thưa Luật gia Hoàng Việt, sau khi tàu cá Việt Nam QNg 94912, cùng sáu thủy thủ bị Trung Quốc bắt giữ, trong dư luận Việt Nam có nhiều ý kiến chỉ trích phản ứng chậm trễ, thái độ « im lặng » hay nói cách khác sự nhu nhược của chính quyền. Về vấn đề này, xin ông cho biết các nhận định sơ bộ. Luật gia Hoàng Việt : Trước hết, tôi chưa rõ các ngư dân bị bắt tại các vùng biển nào. Bởi vì thông tin đưa ra là sáu ngư dân bị bắt ở cửa Vịnh Bắc Bộ, nhưng tôi nhận được thông tin khác. Tức là, nói chung không rõ họ bị bắt tại vùng biển nào. Trong Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam và Trung Quốc đã phân định từ năm 2000, nhưng ở cửa Vịnh Bắc Bộ, hai bên vẫn đang tiếp xúc để đàm phán. Hiện nay, việc phân định cửa Vịnh Bắc Bộ vẫn đang gặp trở ngại. Bởi vì, phía Trung Quốc họ đưa ra quan điểm « chủ quyền thuộc ta/thuộc ngã, gác tranh chấp cùng khai thác ». Và khi đàm phán để phân định cửa Vịnh Bắc Bộ, họ vẫn dựa vào « đường Lưỡi bò ». Cho nên phía Việt Nam kiên quyết không chấp nhận trường hợp đó. Trong trường hợp vùng cửa Vịnh Bắc Bộ là vùng chưa có sự phân định, thì theo tinh thần của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, trong điều 74 và điều 83, trong khoản 3 có quy định rằng, khi chưa có sự phân định thì các bên phải có sự thiện chí với nhau. Nhưng tôi vẫn cho rằng, hành động gần đây của Trung Quốc cho thấy họ không có sự thiện chí. Đặc biệt sự kiện mới nhất là tháng 5/2014, Trung Quốc đặt giàn khoan 981 (giàn khoan Haiyang Shiyou 981) ngay trong vùng thềm lục địa của Việt Nam và đến giờ họ cũng chưa rút ra. Còn vấn đề phản ứng của phía Việt Nam, tôi vẫn cho rằng là ở đây có nhiều điều khó khăn. Thứ nhất là Việt Nam là một nước láng giềng của Trung Quốc, và so với tiềm lực của Trung Quốc thì Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều. Cho nên, Việt Nam vẫn chọn một phương án là Việt Nam cố gắng duy trì các biện pháp hòa bình, gọi là tối đa, với Trung Quốc. RFI : Trong vụ 6 ngư dân vừa bị bắt giữ, câu hỏi đặt ra là : tại sao chính quyền Việt Nam không làm được công việc xác minh vị trí hành nghề của ngư dân nước mình (mà theo thông tin báo chí trong nước, có nhiều tàu bè Việt Nam hoạt động tại địa điểm này vào thời điểm tàu QNg 94912 bị bắt) ? Trong trường hợp này, nhiều người quan tâm có cảm giác là chính quyền Việt Nam thoái thác trách nhiệm xác minh thông tin, và đẩy trái bóng về phía Trung Quốc. Điều này gây một tâm trạng hoang mang trong công luận. Xin ông cho biết quan điểm. Luật gia Hoàng Việt : Thực ra, phía Việt Nam không phải là họ thoái thác đâu. Thực ra là trình độ quản lý của Việt Nam có nhiều vấn đề. Đặc biệt trong quản lý biển, Việt Nam vẫn không đủ tiềm lực, không đủ phương tiện kỹ thuật để có thể quản lý được những vấn đề đó (cụ thể là việc xác định vị trí tọa độ nơi làm việc của ngư dân – ndr). Ngay cả trên đất liền, trong nội địa của Việt Nam, việc quản lý của chính quyền luôn luôn là chuyện mà người dân có các phản ứng. Đến thời điểm này, tôi khẳng định là Trung Quốc đã đẩy Việt Nam đến thế đường cùng, và Việt Nam đã phản ứng, nói chung là đã có phản ứng gần như là rất cấp bách. Chỉ có điều là, để tìm ra một hướng đi, một chiến lược để đối phó với các hành động của Trung Quốc, thì Việt Nam thực sự là cho đến bây giờ vẫn còn lúng túng. RFI : Câu hỏi đặt ra là, nếu như chính quyền Việt Nam không đủ khả năng xac định được tọa độ nơi các ngư dân bị bắt, thì tại sao chính quyền lại không minh bạch về sự bất lực này, về thực tế này ? Tại sao chính quyền không để cho các cơ sở nào có năng lực tham gia vào chuyện này, hoặc ít ra mở ra các giải pháp để giải quyết vấn đề này ? Luật gia Hoàng Việt : Cá nhân tôi cho rằng Nhà nước vẫn chưa làm được tròn nhiệm vụ bảo vệ các công dân của mình. Nhưng mà ở Việt Nam có nhiều vấn đề, và không phải chỉ riêng vấn đề này. Ở một chính thể như Việt Nam, các cơ quan bao giờ họ cũng không muốn nhận trách nhiệm về phía mình. Chuyện quy trách nhiệm là chuyện rất dài. Đối với Việt Nam (chuyện này - ndr) bây giờ là sự loay hoay dài. Tôi thì đặt ra vấn đề là, chính phủ Việt Nam bây giờ phải đặt ra đối sách, một chiến lược đối phó với các hành động của Trung Quốc trong tương lai. Bởi vì, những hành động của Trung Quốc không chỉ xảy ra trong hiện tại, mà nó sẽ tiếp tục kéo dài với một tốc độ cao hơn trong tương lai. RFI : Thưa ông, chúng ta có thể hình dung trong thời gian ít ngày nữa, hải cảnh Trung Quốc lại có một vụ bắt giữ các ngư dân Việt Nam đang làm việc trên ngư trường, thì ông có nghĩ rằng có khả năng lúc đó chính quyền Việt Nam sẽ lại yêu cầu phía Trung Quốc cung cấp tọa độ nơi họ bị bắt, trong khi về phần mình không đưa ra thông tin gì ? Luật gia Hoàng Việt : Tôi xin trở lại ý lúc nãy là, nếu Việt Nam có một chiến lược để đối phó với Trung Quốc trong một thời gian tới, thì Việt Nam sẽ có một hướng đi khác. (Còn nếu không), thì rõ ràng Việt Nam sẽ vẫn loay hoay như trong thời gian vừa rồi. Trong thời gian vừa rồi, với sự kiện 981 (giàn khoan Hải Dương 981) một mặt, Việt Nam đã kìm chế được, để không khiến tranh chấp trở thành xung đột quân sự, đó là điều tốt. Nhưng nếu trong thời gian sắp tới mà Việt Nam vẫn cứ phản ứng như vậy, thì điều này cho thấy Việt Nam đã bị động và bị lúng túng trong việc đưa ra các biện pháp. Tôi vẫn nghiêng về khả năng là, đến giờ Việt Nam vẫn chưa đưa ra được một chiến lược nào rõ ràng, cụ thể cả… Còn đương nhiên là phía Việt Nam có cái khó của họ. Tức là chính phủ Việt Nam cho rằng về mọi mặt, họ yếu hơn Trung Quốc. Vậy thì, giữa một bên yếu và một bên mạnh, thì sẽ đối xử như thế nào. Về cái này, cũng có nhiều vấn đề để tranh luận… Tôi vẫn hy vọng chính quyền Việt Nam sẽ đưa ra một chiến lược rõ ràng. Có lẽ là trong thời gian sắp tới phía Việt Nam cũng đang muốn đưa sự kiện giàn khoan ra một tòa án quốc tế nào đó. Phía Việt Nam có vẻ đang quyết tâm trong trường hợp đó. Thế còn quyết tâm đến mức nào, tôi cũng chưa biết. Nhưng tôi cho rằng Việt Nam quyết tâm, bởi vì Việt Nam bị dồn tới chân tường, Việt Nam cũng sẽ làm tất cả mọi cách Việt Nam có thể làm, để bảo vệ những lợi ích của mình, trong đó có sử dụng biện pháp pháp lý. RFI : Thưa ông, trong thời gian chờ đợi Việt Nam kiện Trung Quốc, nếu như chính quyền vẫn tiếp tục ở thế « loay hoay » này, thì phải chăng số phận của người ngư dân Việt Nam vẫn ở trong tình trạng hết sức bấp bênh, vì không nhận được ủng hộ thực sự từ chính quyền ? Luật gia Hoàng Việt : Thực sự mà nói ngư dân họ cũng là những người rất dũng cảm, khi làm công việc đánh bắt trên biển. Cho đến bây giờ (chính quyền) Việt Nam đang cố gắng, nỗ lực hết sức. Chỉ có vấn đề là nỗ lực này đạt được mức độ nào, thì chúng ta vẫn phải chờ đợi. Cho đến bây giờ Việt Nam cũng có nhiều tuyên bố, cũng như định hướng, nhưng những tuyên bố và định hướng này không biết có phù hợp và đáp ứng được… trong hoàn cảnh thực tế hay không. Phía chính phủ Việt Nam họ cũng đưa ra được nhiều vấn đề đấy, nhưng còn để nhận xét được những chính sách của họ, có lẽ chúng ta phải chờ thêm một thời gian tới nữa. RFI : Có một câu hỏi là phải chăng báo chí hay dư luận trong nước có phản ứng quá nương nhẹ với chính quyền, vì thế mà chính quyền chưa thực sự đối mặt với sự thật, tức khả năng hạn chế của mình, và vì không đối diện với sự thật, nên cũng không có quyết tâm thay đổi, cải thiện năng lực của mình, cụ thể như trong việc chủ động, nhanh chóng xác định được vị trí các ngư dân Việt Nam làm việc hay nơi họ bị bắt ? Luật gia Hoàng Việt : Theo quan điểm của riêng tôi, dư luận trong nước cũng không nuông chiều đâu. Có vẻ như đây là những điều trên các báo chính thức, tức « lề phải ». Còn bên « lề trái » cũng có nhiều ý kiến ghê gớm lắm. Và thông tin và truyền thông bây giờ không chỉ là «lề phải », mà có « lề trái » nữa. Nói vui là « lề trái » thôi, nhưng thực ra có rất nhiều tiếng nói của người dân ở đây. Vấn đề ở đây là chính phủ Việt Nam cũng gặp những khó khăn. Khả năng họ làm được cái gì, cái đấy tôi không dám nhận xét. Nhưng tôi chỉ nhận xét một vấn đề là. Cho đến bây giờ, Việt Nam vẫn chưa đưa ra được một chiến lược rõ ràng, để đối đầu, hoặc là chống lại những ảnh hưởng và những hành động sai trái từ phía Trung Quốc. Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều. Chính phủ Việt Nam nỗ lực rất nhiều, nhưng chỉ là nỗ lực trong những biện pháp gọi là ‘‘tình thế’’, tức là giải quyết những vấn đề trước mắt, chứ còn để cho một tầm lâu dài, để thống nhất và đưa ra được một chiến lược khiến cả nước cùng chụm lại, thì tôi vẫn nghĩ rằng Việt Nam vẫn đang loay hoay. Với tư cách một nhà nghiên cứu về Biển Đông, tôi khẳng định rằng tranh chấp Biển Đông sẽ kéo dài hàng trăm năm kế tiếp, chứ không chỉ là giải quyết ngay trong thời gian này. Tuy nhiên, mỗi thời gian sẽ có một nhiệm vụ. Việc chính phủ Việt Nam bằng mọi giá phải làm được, đó là phải giữ được các vùng biển, mà Việt Nam sẽ được hưởng theo các quy định của Công ước về Luật biển, trong đó có các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam sẽ được hưởng và Việt Nam sẽ phải làm mọi cách để giải quyết vấn đề đó. Và vì vậy, bảo vệ quyền của ngư dân cũng là bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển của Việt Nam được sự công nhận của Công ước Luật biển 1982. RFI : Xin cảm ơn Luật gia Hoàng Việt. Lễ Khai mạc Đại Hội Thanh Niên Úc Châu Lần Thứ Nhất 10-13/7/2014
< iframe title="YouTube video player" width="640" height="390" src="http://www.youtube.com/embed/d0FCREfkclU" frameborder="0" allowfullscreen="">< /iframe>
Đại Hội Thanh Niên Úc Châu 2014 đã chính thức khai mạc vào lúc 7 giờ tối ngày thứ Năm, 10/7/2014 tại Giảng đường L114, trường Đại Học Victoria nằm trên đường Ballarat, thành phố Footscray tiểu bang Victoria Úc Châu với chủ đề: “Một Ước Mơ: Tuổi Trẻ Việt Nam Tiếp Nối và Hành Động”, Đại Hội Thanh Niên Úc Châu diễn ra từ ngày 10/7/2014 đến ngày 13/7/2014, với thành phần diễn giả đa dạng tại Úc cũng như một số quốc gia trên thế giới.
Về phía quan khách có sự tham dự của ông Luke Simpkins, Dân Biểu Tự Do Liên Bang đơn vị Cowan, Tây Úc, Chủ tịch Tiểu ban Nhân Quyền trong Uỷ ban Hỗn hợp về Ngoại giao, Quốc phòng và Thương mại của Quốc hội Úc, ông Chris Hayes, Dân Biểu Lao Động Liên Bang đơn vị Fowler, NSW Úc Châu, ông Luke Donnellan, dân biểu đảng Lao Động tiểu bang Victoria đơn vị Narre Warren North, ông Quách Nam, Phó Thị Trưởng thành phố Maribyrnong, Nghị Viên Trương Văn Lợi, thành phố Greater Dandenong, Giáo sư Robert Pascoe thuộc trường đại học Victoria.
Về phía quan khách Việt Nam có sự hiện diện của LS. Võ Trí Dũng Chủ Tịch Cộng Đồng NVTD-Liên Bang Úc Châu, ông Nguyễn Văn Bon Chủ Tịch CĐNVTD -Tiểu Bang Victoria, ông Lê Đình Anh Chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn và Giám Sát Cộng Đồng NVTD Victoria, ông Nguyễn Quang Duy Khối 8406, ông Nguyễn Việt Long Chủ tịch Footscray RSL…và đông đảo đồng hương tham dự.
Chương trình khai mạc Đại Hội được mở đầu bằng hoạt cảnh “Con Rồng Cháu Tiên và Múa Cờ” do các anh chị thanh niên sinh viên trình diễn một cách công phu và điêu luyện và được kết thúc với biểu tượng “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.
Lễ Khai Mạc Đại Hội được chính thức bắt đầu với nghi thức Chào Quốc Kỳ Úc-Việt và Một Phút Mặc Niệm. Sau phần giới thiệu quan khách tham dự là diễn văn khai mạc của anh Lê Xuân Đôn và Daniel Võ, đồng Trưởng ban tổ chức Đại Hội. Anh Đôn & Daniel ngỏ lời trân trọng và cám ơn mọi đóng góp của cộng đồng các tiểu bang, quý vị phụ huynh và các mạnh tường quân đã đóng góp công sức, tài chánh và tinh thần trong suốt tiến trình tổ chức đại hội.
Các anh tin tưởng 4 ngày đại hội sẽ giúp các bạn trẻ hiểu rõ hơn về bản sắc và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng cộng đồng Người Việt tại Úc cũng như góp phần đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam và xây dựng đất nước Việt Nam hậu cộng sản.
Trong phần phát biểu của LS. Võ Trí Dũng, Chủ tịch Cộng Đồng NVTD Liên Bang Úc Châu ông đã bày tỏ sự hộ trợ của ông và Cộng Đồng NVTD Úc Châu cho việc tổ chức Đại Hội Thanh Niên Úc Châu lần thứ Nhất. Ông tin tưởng rằng đại hội sẽ giúp các bạn trẻ hiểu rõ hơn về hướng đi của mình cũng như dấn thân vào các sinh hoạt của cộng đồng và đặc biệt hỗ trợ giới trẻ Việt Nam tại quốc nội trong nỗ lực dân chủ hóa Việt Nam.
Chương trình Đại Hội được tiếp nối với phần phát biểu của ông Luke Simpkins dân biểu Liên Bang đảng Tự Do tại quốc hội Úc. Dân biểu Luke Simpkins đã ca ngợi nỗ lực của giới trẻ Việt Nam tại Úc qua việc tổ chức Đại Hội như là một sự bảo tồn văn hóa Việt và đem khả năng của mình đóng góp cho sự phát triển của xã hội Úc Đại Lợi. Ông cũng đã chia sẽ cùng cử tọa về kinh nghiệm của ông qua việc bưng bít thông tin và vi phạm quyền tự do ngôn luận của nhà nước Việt Nam trong hai lần ông thăm và công tác tại Việt Nam, điển hình là chuyến viếng thăm đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Ông cũng nhấn mạnh đến việc bộ ngoại giao Việt Nam đã khéo léo nhắc nhở về những hình ảnh ông tham gia các cuộc biểu tình của những người Úc gốc Việt mà ông đang đại diện cho họ.
Kế đến là phát biểu của ông Chris Hayes dân biểu Liên Bang đảng Lao Động Đối Lập tại đơn vị Fowler, NSW. Ông Chris Hayes đã ca ngợi nỗ lực học tập và thành công của giới trẻ Việt Nam tại Úc. Ông cũng nhắc nhở các bạn trẻ Việt Nam đừng quên đem sự hiểu biết và thành công của mình để đóng góp cho cộng đồng và sự phát triển của nước Úc và đó là cách hay nhất để trả ơn cho cha mẹ và thế hệ đi trước đã hy sinh rất nhiều cho sự thành công của các bạn.
Hội trường vang lên những tràng vỗ tay liên tục qua tiết mục trình diễn thời trang độc đáo mang tên “Winter Wonderland Fashion Show” với những tà áo dài trắng thướt tha được thể hiện một các công phu qua nhiều thể loại do cô Bích Huyền thực hiện.
Lễ khai mạc Đại Hội được tiếp nối với phần phát biểu của Nghị Viên Quách Nam, Phó Thị Trưởng thành phố Maribyrnong và Giáo sư Robert Pascoe đại diện khoa trưởng trường đại học Victoria. Sau đó là phần độc tấu dương cầm của nghệ sĩ Phạm Hoàng một tài năng trẻ đã đoạt danh hiệu Tài Năng Trẻ của Úc năm 2013.
Lễ khai mạc Đại Hội Thanh Niên Úc Châu 2014 được kết thúc với phần phát biểu của Bác Sĩ Nguyễn Đỗ Thanh Phong đến từ Sydney. Cả hội trường cùng hòa nhập với phần trình diễn của bạn Đỗ Anh Tuấn qua nhạc phẩm Triệu Con Tim của nhạc sĩ Trúc Hồ và cuối cùng được kết thúc bởi hợp ca của cả hội trường qua nhạc phẩm “Bài Ca Tuổi Trẻ” của nhạc sĩ Phan Văn Hưng: “Từ khắp bốn phương trời , và muôn lối đi trong đời, gặp nhau trong tâm hồn Việt Nam sáng ngời…”
Quốc Nguyễn Tường trình từ Melnourne
|
|
Những nội dung khác:
|
|
|
|
|