Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 12
 Lượt truy cập: 24823324

 
Khoa học kỹ thuật 16.04.2024 01:01
30 Tháng Tư: Hòa Bình Và Hòa Giải Dân Tộc
05.04.2015 18:19

10.000 bức ảnh VN trước 75
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/11102357684/

Steven Dieu “Ai nắm giữ quá khứ, sẽ làm chủ tương lai.Ai thống trị hiện tại, sẽ bóp méo quá khứ.” 

Trong tuổi thiếu niên Steven Dieu vượt biển một mình. Đến Hoa Kỳ, thân tự lập thân, gian khổ trăm bề tốt nghiệp Luật sư.

LS Steven Dieu hiện làm việc trong văn phòng Biện Lý của  Quận   Harris   County . Ông thường góp mặt trên đài truyền hình Việt ngữ trong các buổi hội thọai liên quan về các đề tài Chính trị hoặc Sinh họat trong Cộng Đồng NVQG  Houston .

30 tháng 4 hàng năm, một ngày như mọi ngày.  Nhưng với những người Việt tị nạn Cộng Sản, nó là một ngày lịch sử và gợi lên một tâm trạng khó quên.  Tháng Tư về, người Việt, trong và ngoài nước, nếu không vô cảm đều khó tránh việc ôn lại quá khứ và chia xẻ ưu tư về tương lai của đất nước và dân tộc Việt  Nam .
Tôi thuộc mẫu người hay suy tư, nghĩ ngợi và viết trong thanh tịnh của màn đêm.  Suốt hai đêm qua, ngồi một mình uể oải trước máy computer.  Tâm tư trầm lắng.  Tối nay, ngoài trời lại vừa đổ mưa.  Trong đêm khuya thanh vắng, tôi ngồi nghe tiếng mưa rơi rào rạt trên nóc nhà và chảy xuống từ máng xối.  Ngả lưng vào ghế, đôi mắt nhìn đăm đăm vào mặt đồng hồ trên tường, miên man trầm tưởng, tôi cảm thấy buồn rười rượi.  Không hay đã gần hai giờ khuya rồi!  Mãi đeo đuổi một ý nghĩ: ngót bốn mươi năm xa vời vợi! Trong nửa đêm khuya, còn tôi thì đang ở nửa khoảng của đời người.  Hai đêm nay, trong bâng khuâng, tôi bắt đầu góp nhặt lại một chuỗi dĩ vãng nằm rời rạc và ngổn ngang trong ký ức, để đi tìm một điều gì đó mà chính tôi cũng không biết.  Ngước mắt lên trần nhà, tâm hồn tôi trôi lang thang không mục đích, như con thuyền trôi dạt trên biển cả không bờ bến…
Tôi sinh ra và lớn lên trong thời chiến lẫn thời bình.  Như một động cơ vô hình, chiến tranh và hòa bình thúc đẩy tôi phải lớn lên một cách vội vã.  Chiến tranh Việt  Nam  đã kết thúc được 40 năm, và những tàn tích của cuộc chiến cũng dần dần biến mất theo thời gian.  Tuy nhiên, những ký ức đau thương của thời hậu chiến, cấu tạo bởi xương máu, nước mắt và sinh mạng thì không thể nào xoá bỏ được khỏi não trạng của tôi cũng như hàng triệu người Việt tị nạn Cộng Sản.
Tôi bước chân lên đất Hoa Kỳ vào một mùa Đông giá lạnh rét buốt.  Người tôi bỡ ngỡ, lòng tôi xôn xao một niềm vui trong hoang mang vô định và một nỗi buồn khó tả.  Sau nhiều ngày tháng trong trại tị nạn, trước mắt tôi bây giờ là một thế giới hoàn toàn xa lạ.  Lúc đó, tôi ngẫm nghĩ, không hiểu tại sao mình còn sống bình yên được đến ngày hôm nay.  Tôi tự nhủ với mình là phải quên đi quá khứ, chú tâm học hành và xây dựng tương lai.
Những năm đầu trên xứ Mỹ, tôi không đi tìm dĩ vãng, nhưng dĩ vãng đau buồn vẫn cứ lẩn quẩn bên tôi, như bóng với hình.  Khi màn đêm sụp xuống và ánh đèn vàng bật lên, “bóng” lại về với tôi.  Tôi mới hiểu là không cách nào tách rời nó được.  Vứt bỏ nó tức là vứt bỏ tôi! Bởi vì, tôi là nhân chứng, là thuyền nhân trên con tàu dĩ vãng.  Nhiều đêm, ký ức tự nó xoay mình, tôi trở thành cái “bóng”, và “bóng” lôi cuốn tôi vào cơn ác mộng.
Đời người tị nạn phần nhiều là buồn và khổ.  Trên nỗi buồn tha hương lại chồng chất thêm nhiều kỷ niệm đau khổ trong cuộc sống trên xứ người.  Một mùa đông lạnh buốt đi qua, lại thêm nhiều mùa đông rét buốt tiếp đến. Ngày nọ rồi tới ngày kia, ký ức đau buồn dần dần cũng phai nhạt theo bụi thời gian.  Tôi cứ nghĩ mình đã quên dĩ vãng từ lâu, nhưng rồi bất chợt, 30 tháng Tư về, quá khứ đau thương cũng đua nhau ùa về, như vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Tim tôi quặn thắt lại.  Cho dù sau 40 năm, thỉnh thoảng dĩ vãng len lỏi vào giấc ngủ, trong yên lặng của màn đêm, khóe mắt tôi, bỗng dưng thoáng nồng cay. Đây không phải là giọt nước mắt của đau thương, lại càng không phải là nước mắt của hận thù.
Tại sao ta không bỏ nước ra đi trong thời chiến tranh, mà lại trốn chạy trong thời hòa bình, thống nhất?  Có người hỏi.
Tôi không phải là nạn nhân của chiến tranh.  Tôi, cũng như hàng triệu người dân miền  Nam , là nạn nhân của một chế độ độc tài.  Là nạn nhân của những chính sách hà khắc, đầy hận thù, băng hoại đạo đức, và tàn nhẫn vô nhân đạo dưới ách thống trị của đảng Cộng Sản Việt  Nam .
Như một cơn gió lốc, sự kết thúc bất ngờ của cuộc chiến, chẳng những không hàn gắn lại được vết thương “huynh đệ tương tàn”, mà còn tạo ra thêm những bi kịch đau thương trong thời hậu chiến.  Hòa bình và thống nhất, trong bối cảnh miền Nam Việt  Nam , còn tồi tệ hơn thời chiến tranh.  40 năm đã qua, những vết thương vẫn còn đó. Về phương diện tâm thần, dấu tích đau buồn của thời hòa bình không chỉ ở một mà tới hai hay ba thế hệ.  Trong hòa bình và thống nhất, nhà cầm quyền Cộng sản đã xoá đi sinh mạng của trên 1 triệu người, đưa đến thảm cảnh hàng triệu gia đình ly tán, hàng trăm ngàn trẻ em mồ côi cha lẫn mẹ, và hàng trăm ngàn nạn nhân chôn xác giữa biển Đông.
Nạn nhân của biển Đông?  Họ là những người mất nước, mất luôn cả tên tuổi và lý lịch.  Thế giới đã đặt cho họ tên ‘Boat People’ (ThuyềnNhân)!   
Nghĩa trang là nơi chúng ta chôn cất người ‘đã chết’, là “nơi an nghỉ”cuối cùng.Nhưng.., “Thuyền Nhân” Việt Nam đã biến Biển Đông thành nghĩa trang, một nghĩa trang “chôn sống” hàng trăm ngàn thuyền nhân vô tội, một nơi “an nghỉ” lớn nhất trên thế giới cho những Thuyền Nhân không đến được bờ đất tự do.  Một sự kiện lịch sử cho cả thế giới, mà chế độ Cộng Sản Việt  Nam  tránh né, không nhận trách nhiệm.
Chúng ta đã đạt được gì? Dân tộc Việt  Nam  cho đến nay vẫn không có tự do và dân chủ!  Giai cấp “tư bản” vẫn còn đó!  Tư bản của chế độ Việt Nam Cộng Hoà được thay thế bằng giai cấp “tư bản đỏ”, mà những “đại gia” chính là đảng viên quan tham già nua của Đảng Cộng sản!  Người dân “bần cố nông” vẫn còn đó!  Đất nước Việt  Nam  vẫn nghèo nàn, dân trí vẫn thấp kém.  Người dân vẫn bị áp bức và bóc lột, tham nhũng lan tràn khắp nơi trong nước, tệ hại hơn gấp trăm lần so với chế độ Việt Nam Cộng Hoà trước đây.  Đất nước thống nhất, dân tộc Việt bị xiết chặt bởi cái “gọng kềm” của chế độ độc tài Cộng sản.  Chế độ Cộng sản đã mất đi cái “chánh nghĩa” mà bọn chúng đã cố ngụy tạo khi xâm chiếm miền  Nam .
Từ thập niên 2000, một xu hướng kêu gọi người Việt hải ngoại nên “khép lại quá khứ” và “hòa hợp, hòa giải dân tộc”.  Trước đó, đã có một khẩu hiệu tương tự: “xoá bỏ hận thù, hướng đến tương lai”. Tư tưởng nầy xuất sứ từ trong nước, trở thành một chánh sách của đảng Cộng sản và nhà nước Việt  Nam , và năm 2004, trở thành Nghị Quyết 36.
Trong khi đảng Cộng sản kêu gọi “Việt kiều” hãy “xoá bỏ hận thù”, thì chính họ lại bóp méovà phô trương quá khứ.  Trong suốt 40 năm qua, nhà cầm quyền Cộng sản thống trị với một “chánh sách nhồi sọ”.  Họ bắt buộc người dân phải ăn mừng cuộc chiến thắng chống Mỹ cứu nước, tôn sùng bác Hồ vĩ đại, ca ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, liên tục không ngừng nghỉ: từ tiểu học đến đại học, trong những buổi tối “học tập chính trị” tại phường khóm, trong các buổi biểu diễn văn nghệ, trong các cuộc triển lãm, trong nghệ thuật phim ảnh, và trong ngành truyền thông báo chí.  Thậm chí, những bài hát ca tụng Hồ Chí Minh, vinh danh Đảng được hát đi hát lại mỗi ngày qua những cái loa phóng thanh đặt tại những góc đường, những vở kịch, những cuốn phim về lịch sử chống Mỹ cứu nước cũng được chiếu đi chiếu lại hàng tuần.
Vâng, chúng ta có thể khép lại quá khứ đau thương, nhưng không có nghĩa là quên nó đi.  Nhớ đến quá khứ đau thương không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để tránh lặp lại những sai lầm đã xảy ra, và cũng để nhận thức được nguồn gốc của mình: “người Việt tị nạn Cộng Sản”.  Nếu chúng ta quên đi quá khứ thì chẳng khác gì quên đi sự hy sinh của những Quân, Dân, Cán, Chính và các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, của cha mẹ, của người thân, và của anh em đồng đội.  Quá khứ là một phần của cuộc đời, là nền tảng tạo thành ngày hôm nay.  Có quá khứ thì mới có ngày hôm nay.  Cho nên, dù dĩ vãng đầy đau thương thì cũng phải biết quý trọng nó, vì đó là một phần trong cuộc sống của mỗi người mà không ai có thể chối bỏ và thay đổi được.
Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ trên 25 năm.  Ngay cả tầng lớp đảng viên già nua, và đảng viên lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nhà nước Việt  Nam  cũng đã vứt bỏ lý tưởng Cộng sản từ lâu. Nhưng bề ngoài, họ phải bám vào nó, như bám vào một thây ma, để tồn tại, bảo vệ nó để biện minh cho quyền lực và sự thống trị của họ.  Những hành động: chuyển tài sản, cho con cháu du học, đi trị bệnh, đầu tư ở những nước tự do đã cho chúng ta thấy rõ điều này.
Nhìn lại quá khứ, chúng ta ngẫm nghĩ đến tương lai.  Có một kế hoạch hoặc đường lối nào sớm đem lại dân chủ và tự do cho đất nước và người dân Việt  Nam ?  Kế hoạch? Tôi không có! Nhưng, tôi biết việc gì chúng ta không nên làm.  Bởi vì, nếu làm sẽ có ảnh hưởng tai hại đến những người đang tranh đấu và hy sinh cho một xã hội Việt  Nam  tự do và dân chủ.
Tôi không thể chấp nhận hòa hợp hòa giải dân tộc một cách mù quáng.  Một chánh sách dựa hoàn toàn trên nền tảng của sự ảo tưởng (mirage) và lừa bịp.  Khuyến khích hoặc hô hào cho hòa hợp hòa giải dân tộc là điều mà chúng ta không nên làm.
Tôi chưa bao giờ có hận thù với đồng bào tôi, nên không đặt “hòa giải, hòa hợp” với đồng bào thành vấn đề.  Nếu ai có hận thù, có nợ máu với dân tộc, thì hoà giải với dân tộc là điều cần phải làm.  Tôi và đồng bào Việt  Nam đều là nạn nhân của chế độ Cộng sản.  Tôi may mắn không còn là nạn nhân của chế độ, và trở thành người “tị nạn”.  Ngày nào còn chế độ Cộng sản, ngày đó tôi vẫn còn “tị nạn”.  Ngược lại, hàng chục triệu đồng bào Việt  Nam vẫn còn là nạn nhân của chế độ.
Hòa giải ở đây là hoà giải giữa nhà nước Cộng sản và dân tộc Việt  Nam , không phải chỉ với người Việt hải ngoại.  Hay nói rõ hơn là hoà giải giữa tập đoàn thống trị độc tài Cộng sản với đồng bào bị trị, bị Cộng sản trả thù, đàn áp, bịt miệng, tù đày, giết hại, bóc lột, và cướp của.
Nếu nhà cầm quyền Công sản thật sự muốn hòa giải với đồng bào, họ đã thực hiện từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.  Trong 4 thập niên qua, họ vẫn chưa hòa giải với 90 triệu người Việt trong nước, thì tại sao họ lại quan tâm muốn hòa giải với 4 triệu người Việt hải ngoại, nếu không phải là để khai thác tài chánh và huy động “chất xám” của “Việt kiều” trong công cuộc đóng góp cho Đảng và Nhà nước?  Và tại sao có một số người Việt  và  nhiều đảng phái chính trị chống Cộng ở hải ngoại cũng hô hào hòa hợp hoà giải, nếu không phải là mưu đồ hay mưu lợi kinh tài cho cá nhân hay đảng phái của họ?
Trên nguyên tắc, ai đã gây hận thù thì nên hoà giải với nạn nhân của họ.  Làm sao bắt nạn nhân đến xin hòa giải với kẻ vẫn còn hành hạ mình?  Nếu nhà nước Cộng sản thật sự muốn hòa giải hận thù với dân tộc, thì họ chỉ cần hủy bỏ đảng Cộng sản, trả lại quyền tự do và nhân quyền cho đồng bào trong nước, trả tự do cho những người tù nhân lương tâm, những người bất đồng chính kiến: nạn nhân của chế độ.
Như một gã vũ phu trong gia đình.  Nếu hắn ngưng, không đánh đập, bạo hành với người thân trong gia đình, thì hạnh phúc và tình yêu sẽ tự động mở rộng bàn tay đón tiếp họ.  Những lời lẽ hứa hẹn, xin lỗi đầu môi cho qua thời gian sẽ không bao giờ hoà giải được bạo hành trong gia đình.  Ngược lại, càng hứa hẹn, càng xin lỗi giả dối, thì chỉ càng làm cho nạn nhân ngao ngán bản chất lừa bịp.  Chỉ có những hành động cụ thể mới có thể chứng minh được thiện chí.
Đúng vậy, thiện chí là yếu tố căn bản nhất trong việc hòa giải.  Hòa giải dân tộc không chỉ đơn thuần bằng lời nói và cách nói của nhà nước Cộng sản; họ phải thể hiện tinh thần hòa hợp hoà giải dân tộc qua hành động và sự thật tâm.  Khi nhà nước Cộng sản thật sự hoà giải với đồng bào trong nước, quá khứ đau thương của người Việt hải ngoại sẽ tự động hóa giải theo.  Người Việt trên toàn thế giới sẽ hoan nghênh đón mừng một Việt  Nam  mới, thật sự tự do và dân chủ.
Thiện chí?  Trong 4 thập niên vừa qua, nhà nước Cộng sản có thể gác bỏ hận thù và tích cực hợp tác với Hoa Kỳ, với Trung Quốc, hai kẻ thù xâm lấn đất nước, nhưng họ không thể bắt tay với đồng bào Việt Nam?  Họ có thể tích cực giúp Hoa Kỳ tìm kiếm xác và hài cốt của người lính Hoa Kỳ, tưởng niệm những người lính Trung Quốc đã chết tại Việt Nam, nhưng họ đã làm gì cho những người lính Việt Nam đã nằm xuống, cho thương phế binh cả hai bên, cho những người đã chết trong những trại tù cải tạo, và trên biển Đông?  Chỉ riêng việc hoà giải với những người lính Việt Nam Cộng Hoà đã nằm xuống qua việc cho phép trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội miền Nam ở Biên Hòa, đi tìm kiếm và cải táng hài cốt những người đã chết trong các trại tù cải tạo, 40 năm vẫn còn nằm trong  thực trạng “ù lì”. 
Thiện chí? Không lâu sau khi ký Nghị Quyết 36-NQ/TW, ngày 26 tháng 3, 2004, kêu gọi sự đóng góp của “Việt kiều” ở hải ngoại trong “công cuộc đổi mới và chánh sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước”. Đảng và nhà nước vào tháng 6 năm 2005 đã dùng áp lực kinh tế và giao thương yêu cầu chính quyền Malaysia và Indonesia đục bỏ hai tấm bia tưởng niệm những Thuyền Nhân đã bỏ mạng ngoài biển khơi (do người Việt hải ngoại dựng lên vào dịp 30-4-2005) tại Pulau Bidong và Galang. Mặt trước của Đài Tưởng Niệm viết:  “Để tưởng niệm hàng trăm ngàn người Việt bỏ mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Mặc dù họ đã chết vì đói khát, bị hãm hiếp, vì kiệt sức hay bất kỳ lý do nào khác, chúng ta nguyện cầu họ mãi mãi được bình an. Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên. Cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005”.  Hai đài tưởng niệm tại Pulau Bidong và Galang đã bị đục bỏ.  Tấm bia tưởng niệm những thuyền nhân vô tội cũng không được thực hiện.
Chúng ta có thể dễ dàng đánh giá nhân phẩm và thiện chí của Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt  Nam  qua cách họ đối xử với những người đã nằm xuống.
Tại sao với quá khứ đầy đau thương vẫn còn đó, những lời hứa hẹn giả dối, mị dân cho qua thời gian và những chánh sách vô nhân đạo, cũng như sự tiếp tục đày đọa, áp bức đồng bào vô tội của Đảng và nhà nước Cộng sản trong quá khứ và hiện tại, trên 60 năm dài, mà vẫn có người tin theo một cách mù quáng?
Gạt tôi một lần, thật xấu hổ cho anh; gạt tôi hai lần, tôi thật là xấu hổ! (Fool me o­nce, shame o­n you; fool me twice, shame o­n me!)
Steven Dieu, 2015.

12 ngày đêm trận chiến Xuân Lộc

Đúng vào ngày 8 tháng 4 năm 1975 bốn mươi năm về trước trận chiến 12 ngày đêm tại Xuân Lộc vẫn còn sống mãi trong lòng rất nhiều người đặc biệt là các đơn vị tham gia trực tiếp.

Mặc Lâm được dành riêng một cuộc phỏng vấn với Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh sư đoàn 18 Bộ binh cũng là vị tướng mang trọng trách bảo vệ vành đai Xuân Lộc trước cuộc tấn công của quân đội miền Bắc nhằm chiếm lĩnh Biên Hòa và tiến về Sài Gòn sau đó.

Mặc Lâm: Xin cám ơn Thiếu tướng Lê Minh Đảo đã dành cho đài Á châu Tự do cuộc phỏng vấn đặc biệt này. Thưa ông ngày 8 tháng 4 hàng năm chắc có lẽ là ngày đáng nhớ nhất trong cuộc đời tướng lãnh của ông, xin Thiếu tướng cho biết diễn tiến trận đánh này để thính giả, độc giả của đài có cơ hội biết thêm những gì mà nhiều người chưa rõ ràng lắm thưa ông.

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tôi có lời chào tất cả quý thính giả của đài Á châu Tự do và chào ông Mặc Lâm. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào vấn đề của mặt trận Xuân Lộc. Mặt trận Xuân Lộc nó ác liệt đẫm máu ngay vào ngày đầu tiên 8 tháng 4 năm 1975 và kéo dài cho tới ngày sư đoàn 18 rút ra khỏi trận địa vào ngày 21 tháng 4. Cộng sản Bắc Việt đã tung vào mặt trận này một quân đoàn tăng cường gồm 3 sư đoàn là sư đoàn 341, sư đoàn 7 sư đoàn 6 và một sư đoàn pháo 130 ly, 122 ly và phòng không. Trung đoàn chiến xa và các đơn vị đặc công.

Đến 5 ngày sau sau khi họ thiệt hại khá nặng nề thì họ tăng cường thêm trung đoàn biệt lập 95A cùng với sư đoàn 325 nữa. Lực lượng này do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy nhưng sau 5 ngày tổn thất thì họ điều Trần Văn Trà xuống điều nghiên và sau đó Trần Văn Trà chỉ huy luôn các đơn vị này của giai đoạn hai.

Còn lực lượng của VNCH trong 5 ngày đầu tiên chỉ có sư đoàn 18 bộ binh trừ một tiểu đoàn tăng phái cho quân đoàn III đưa qua sư đoàn 25. Có tiểu đoàn 82 biệt động quân họ rút đi từ Lâm Đồng tạm ghé Long Khánh để dưỡng chân và chờ về Sài Gòn. Chúng tôi đã trang bị tiếp tế cho tiểu đoàn này đầy đủ và họ sẵn sàng ứng chiến. Khi họ ứng chiến ở đó thì cộng sản đánh vào đêm 8 thì họ kẹt lại và lực lượng này đặt dưới quyền chỉ huy của tôi. Cho nên tôi có một tiểu đoàn Biệt động quân cộng thêm các lực lượng địa phương quân, nghĩa quân và tiểu khu Long Khánh. Về lực lượng yễm trợ thì có sư đoàn III không quân gồm có các phi tuần khu trục và các trực thăng chở quân và võ trang của Biên Hòa.

Về diễn tiến của cuộc hành quân này thì vào ngày 8 cộng quân ồ ạt tấn công dưới chiến thuật của họ là tiền pháo hậu xung tức là họ pháo kích trước rồi cho đơn vị xung phong vào sau. Họ pháo ác liệt trong suốt ngày đầu tiên 2.000 quả tối đêm 8 rạng ngày 9.  Đến sáng họ cho hai mũi tấn công có chiến xa yễm trợ, tức nhiên họ bị chúng tôi đẩy lui ra ngoài.

Ngày thứ hai họ cũng tiếp tục tấn công như vậy, pháo vào 2.000 quả họ bắn vào thành phố kể như nát hết tất cả nhưng đơn vị chúng tôi thiệt hại rất ít vì tôi đã tổ chức trận địa trước và tôi biết pháo nó sẽ rớt ở trong chứ không thể rớt ở rìa ngoài trong khi chúng tôi đóng ở rìa bên ngoài chờ họ. Ngày thứ ba họ tiếp tục tấn công vũ bão như vậy là 3 ngày tất cả, mỗi ngày gần 3 trung đoàn kể như một sư đoàn.

Sau ba ngày tấn công họ vẫn không vào được và tổn thất rất nặng nề. Trong ba ngày đó họ tổn thất khoảng một sư đoàn rưỡi cho nên tới ngày thứ tư, thứ năm thì lực lượng họ yếu dần họ chỉ tấn công lấy lệ nhưng mà cường độ pháo của họ vẫn tiếp tục mạnh mẽ áp đảo thật nặng vào thị xã Xuân Lộc và các đơn vị phòng thủ.

Đến đây thì mặt trận Xuân Lộc có biến chuyển khác. Quân đoàn thấy mặt trận trở nên quan trọng ở đó cho nên ông Tư lệnh quân đoàn là Trung tướng Toàn mới tăng cường cho tôi một lữ đoàn I nhảy dù với bốn tiểu đoàn. Trực thăng từ Biên Hòa do Chinook đưa vào. Tôi đưa một tiểu đoàn để giữ sân bay Long Khánh giúp cho ông Đại tá Phúc Tỉnh trưởng Long Khánh để có lực lượng bảo vệ cho vững chắc để tôi yên tâm một chút.

Ba tiểu đoàn còn lại đánh từ ngoài đánh vô sau lưng địch bọc phía trong và ở ngoài đánh vào cũng như một ổ bánh mì sandwich. Nếu chúng tôi còn tiếp tục ở lại thì có thể nói với anh rằng tôi sẽ bắt luôn một tiểu đoàn của cộng quân bị kẹt vì họ không còn ai tiếp tế cho họ hết tại một vườn cây ăn trái tại Xuân Lộc.

Có những lúc chúng tôi phải đánh với họ một chống ba, có nơi một chống tới năm và có nơi như ở đồi Móng ngựa chúng tôi chỉ có hai đại đội phải chống nguyên cả một trung đoàn tăng cường chia làm ba hướng vào nhưng mà họ cũng khó mà đánh thủng chúng tôi được. Tại sao? Có thể nói chúng tôi yếu lực lượng nhưng mình yếu thì mình dùng mưu, dùng kế hoạch, mình không dùng sức.

Trận địa đó tôi đã tổ chức hai tuần lễ trước rồi cứ giao thông hào mà đánh. Tôi gài họ vào trong đó để họ dính vào trận địa pháo của tôi. Tôi có những cái hỏa tập ở nhiều khu vực chọn trước vì biết được họ tới đó sẽ bị cầm chân. Trong này tôi đánh ra cầm chân họ mà vô không được thì họ phải nằm ở đó. Khi họ nằm ở đó thì tôi cho pháo binh pháo vào tiêu diệt. Pháo binh tôi đem ra ngoài tất cả và tôi bắn vào trong thành phố yễm trợ các đơn vị cho nên sự thiệt hại của họ rất lớn.

Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng với tình hình mà Thiếu tướng vừa diễn tả đâu có gì quá nguy hiểm khiến ông phải rút quân ồ ạt vào ngày 20 tháng 4? Có gì thay đổi quan trọng khiến cho ông buộc phải rút quân thưa Thiếu tướng?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tình hình bắt đầu thay đổi khi ngày 16 tây thì mặt trận Phan Rang bắt đầu bể, một quân đoàn gọi là quân đoàn 2 Hương Giang họ đi ở quốc lộ 1 xuyên qua Phan Rang họ xuống Phan Thiết để về Sài Gòn. Họ đi vô Bình Tuy ngang Xuyên Mộc về Bà Rịa để tấn công con đường Bà Rịa đi Biên Hòa, đây là một sự uy hiếp vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ đi ngõ đó. Đồng thời Trần Văn Trà đã thay đổi kế hoạch họ đánh phá rất mạnh vào phi trường Biên Hòa vì họ biết phi trường đó còn thì sẽ yễm trợ cho chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi có chừng 50 phi xuất của Biên Hòa thành ra yễm trợ cho chúng tôi nhất là trực thăng võ trang anh em đó đánh rất là ngoan cường, đánh rất hay rót bom lên địch thành ra họ bị thiệt hại rất nhiều vì phi pháo của chúng tôi.

Chiến đoàn 52 của tôi ở tại ngã ba Dầu giây họ đánh nhiều ngày hết đạn dược rồi nên họ xuyên rừng đi thẳng vào rừng, họ đi xuyên rừng Bình Sơn để về Biên Hòa. Trước sự uy hiếp trên quân đoàn sợ rằng mặt trận của tôi nằm ở phía trên mà cộng sản nó đã lọt được vào bên dưới do quân đoàn Hương Giang đi từ bên kia nó vòng ngõ tắt về Biên Hòa cho nên ông trung tướng Toàn ra lệnh phải thay đổi chiến thuật, xin Tổng thống Thiệu và Tổng thống chấp nhận phải đổi chiến thuật là đưa sư đoàn 18 bộ binh về giữ mặt trận Trảng Bom, giữ quốc lộ 1 từ Trảng Bom về Biên Hòa.

Mặt trận này hồi nào đến giờ do chuẩn tướng Khôi, tư lệnh lữ đoàn 3 thiết giáp, đem chiến đoàn lên giữ mặt trận đó mà không lên tiếp được cho sư đoàn 18 tại vì ổng kẹt ngay chỗ đó vì tụi Việt cộng nó chận và ổng phải cầm cự ở đó. Thật ra thì ông Toàn cũng muốn giữ lực lượng đó để bảo vệ cho quân đoàn III nếu cái đoạn này mà lữ đoàn 3 dính vào mà nó đánh vô thì ổng không có đường mà đỡ, ổng ra lệnh  cho tôi rút càng sớm càng tốt.

Một đơn vị khi đang chạm súng mạnh và hàng ngày như thế này mà phải rút quân là chuyện khó vô vàn. Đánh thì dễ còn rút thì dễ hỗn loạn và bị thua nhưng bây giờ lệnh thì phải rút. Kế hoạch tôi rút là dùng một chiến thuật không ngờ. Cái táo bạo của tôi là đi vào con đường hậu phương của nó. Đó là liên tỉnh lộ Long Giao, con lộ đi từ Long Giao xuống ranh giới của quận Đức Thạnh ở Bình Giả đi về Bà Rịa con đường đó dài khoảng 30 cây số.

Tôi biết khi họ đánh mặt trận lớn bên ngoài thì chỗ này không đáng kể, họ coi không quan trọng, họ điều nghiên chỗ khác coi như chỗ đó không có.

Muốn rút trên con đường này tôi lại ra lệnh lần nữa là không rút ban ngày, rút ban ngày địch nó biết nên tôi rút ban đêm. Bắt đầu 8 giờ tối tôi cho rút quân vì tôi biết cộng sản không bao giờ có thể nghĩ rằng một đại đơn vị của quân lực VNCH mà rút quân vào ban đêm như thế này hết, họ không bao giờ ngờ! Sáng hôm ông Toàn ra lệnh tìm cách rút quân thì tôi đã cho lệnh tất cả lữ đoàn dù và một tiểu đoàn của tôi ở trên Núi Thị nã pháo vào các vị trí của họ và mở cuộc tấn công để làm cho họ thấy rằng chúng tôi bắt đầu phản công để tiêu diệt họ thì họ lo chống đỡ và nghĩ rằng chúng tôi đánh họ chứ họ không biết khi đó tôi chuẩn bị rút đi.

Rút quân trong cuộc hành quân này thì rất táo bạo nhưng phải bình tĩnh tối đa, rút từng đơn vị. Trước hết tôi cho trung đoàn của tôi đi đầu, trung đoàn đó được một đơn vị pháo lớn tại căn cứ Long Giao của trung đoàn 48 nằm đó nó yễm trợ. Khi họ rút được êm rồi thì đơn vị pháo đó rút sâu dưới kia họ bắn ngược lên. Sau đó là lực lượng cơ giới do ông Đại tá Tham mưu trưởng hành quân (đại tá Hứa Yến Lến) của tôi ổng dẫn đi, đem hết tất cả cơ giới nặng, cả xe cả xác chết của binh sĩ mình trong ngày hôm đó không đi được bỏ lên xe chở về hết tất cả.

Kế đó là lực lượng tiểu khu xong rồi thì mới tới lực lượng của tôi là trung đoàn 43 do ông Đại tá Lê Xuân Hiếu và tôi cùng đi với ổng đi bộ để chỉ huy. Lực lượng sau cùng là Lữ đoàn dù và tiểu đoàn 2/43 của sư đoàn 18 rút sau. Cuộc rút quân này tương đối an toàn lắm. Chúng tôi đã đem tất cả đại bộ phận của mình đi ra khỏi Bình Giả sáng ngày hôm sau vào lúc 9 giờ thì tới rồi.

Chỉ có buổi sáng do rút trễ cho nên quân dù bị kẹt vì nó biết được do những đơn vị bôn tập nó đánh vội vàng đánh vào đại đội pháo của dù khi đại đội này rút đi. Nhưng rồi sau khi đến nơi tôi bay tới yễm trợ ngược trở lại với anh em dù, lúc 12 giờ trưa thì anh em cũng rút ra hết tất cả.

Mặc Lâm: Vâng thưa Thiếu tướng cho tới hôm nay vẫn còn một câu hỏi đặt ra trước việc có nhiều người cho là hai trái bom CBU-55 đã thả trong trận chiến khu vực Tân Lập nhưng cũng có người đã khước từ nói là chuyện này không có. Xin Thiếu tướng cho biết vấn đề này như thế nào.

NYC35449-400.jpg
Xuân Lộc ngày 13/4/1975.

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: CBU-55 thì nó hút hết tất cả không khí oxygen làm người ta chết chứ còn hai trái bom mà đánh ở đó là BLU 82 đó nặng 14 ngàn pound nói theo kilogram thì nó chừng 7 tấn. Trái bom đó Hoa Kỳ họ đem qua Việt Nam họ dùng trong khi họ còn ở đây. Quả bom đó để tại Việt Nam nhưng không có ngòi nổ vì họ đã đem ngòi nổ về Mỹ. Và khi có phái bộ của ông đại tướng Frederick Weyand ổng qua duyệt xét tình hình, mang hai chiếc tank M48 trên phi cơ Galaxy để làm quà viện trợ cho quân lực VNCH đồng thời chở các em mồ côi về Mỹ. Chiếc phi cơ này bị rớt ở Tân Sơn Nhất. Phái bộ này họ đem mấy cái ngòi nổ cho mấy quả bom BLU 82 qua bởi họ thấy cộng sản nó đi lẹ quá họ cho VNCH cái đó để cản bước tiến của cộng sản. Trong mặt trận Xuân Lộc của tôi được họ cho 2 trái. Tôi không biết là có cái này đâu, tôi phải nói là như vậy.

Tôi chỉ biết là mỗi một ngày tôi chấm tọa độ. Tối tôi chấm tọa độ nơi nào cộng sản đóng quân, chẳng hạn chỗ này sư đoàn đóng chỗ này trung đoàn đóng, chỗ này là điểm tập trung quân của quân đoàn còn chỗ này là điểm của một đơn vị sắp sửa xuất phát. Tại sao tôi biết? Bởi vì trong cuộc chiến thì tới giờ này tôi nói luôn cho biết về vấn đề gọi là mật mã. Tháo ra hết tất cả mật mã của cộng sản thì chúng tôi có Phòng 7 họ gửi bao nhiêu chúng ta mở ra hết tất cả. Buổi chiều khi họ truyền tin thì chúng tôi bắt được hết. Họ báo tất cả bức điện của họ bằng chữ, ví dụ một lô chữ azkd...nhưng trong số chữ đó chúng tôi biết đọc ra mật mã, chính chỗ đó nên tôi đánh trúng họ và họ thiệt hại rất nhiều.

Trung tâm phối hợp hỏa lực của tôi chiều nào cũng kiểm tra cái này hết. Những mục tiêu xa tập trung những đơn vị của họ ở gần trên Định Quán thì tôi xin quân đoàn cho tôi đánh mục tiêu này. Tôi xin đánh vào mục tiêu đó nhưng tôi không biết rõ là quân đoàn đánh bằng quả bom BLU 82. Sự thiệt hại của địch quân rất cao. Còn một quả nữa thì tôi thấy nó không ép-phê gì trong trận địa của tôi, trái thứ hai không kết quả bao nhiêu.

Mặc Lâm: Thưa Thiếu tướng sau khi miền Nam hoàn toàn thất thủ thì Thiếu tướng cũng như toàn bộ sĩ quan, cán bộ viên chức cao cấp của VNCH đều bị giam giữ và chế độ mới gọi những tù nhân này là tù cải tạo. Có bao giờ ông đòi hỏi chế độ phải thay đổi cách gọi như vậy mà phải gọi chính xác những người tù này là “tù binh chiến tranh” hay không?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Lúc đó chúng nó cả vú lấp miệng em nó nói: các anh còn cái gì nữa, còn đất nước đâu? Sự thật thì chúng tôi có còn đất nước đâu? Lực lượng bạn, đồng minh đã phản bội rồi. Tất cả các nước ký Hiệp định Paris họ đều êm re, họ như đầu hàng trước bạo lực của Cộng sản. Chúng tôi là những con người sống lạc loài trong xứ sở của mình mà cộng sản gán cho chúng tôi thành tội nhân của chiến tranh thành ra chúng tôi không nói được.

Chúng áp đặt chúng tôi, buộc tội chúng tôi ngay trong cái bản án, thí dụ một ông Trung tá thì nó đề: Ông Trung tá can tội gì? Can tội Trung tá tiểu đoàn trưởng hay cái gì đó. Còn tôi, tôi là Lê Minh Đảo, can tội gì? Can tội Tư lệnh sư đoàn 18 bộ binh! Như vậy sư đoàn 18 bộ binh là cái tội sao? Nó nắm quyền sinh sát trong tay nó nói gì nó nói làm sao chúng tôi nói được. Chúng tôi không nghe nó nói, chúng tôi chỉ kiên cường bất khuất trong nhà tù, cắn răng mà chịu.

Nó bắt mình quỳ nhưng mình không quỳ. Anh em họ chiến đấu một cách can trường như vậy. Đến ngày bắt buộc chúng nó phải thả chúng tôi ra có người nào trong đó mà được chúng tẩy não, rửa sạch theo cộng sản đâu?

Mặc Lâm: Trong lúc bị giam giữ cá nhân Thiếu tướng và các vị tướng khác có được đối xử một cách khác biệt hay không, chẳng hạn về tiện nghi cũng như chế độ ăn uống có đặc biệt hơn những anh em khác?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Nó giam riêng chúng tôi, nó sợ giam chung với nhau thì dù sao chăng nữa kỷ luật quân đội cũng như hệ thống quân giai anh em họ còn nể trọng chúng tôi thành ra khó cho nó. Nó giam riêng chúng tôi nó hành hạ chúng tôi kiểu khác.

Có lần nó thử đưa tôi với ông Tướng Sang về trại giam Nam Hà nhưng do sự kính nể của anh em đối với cấp chỉ huy và thấy tôi bắt đầu quậy thì nó đem tôi về lại.

Mặc Lâm: 30 tháng 4 năm nay là kỷ niệm 40 năm cuộc di tản khổng  lồ của người dân Việt. Nhìn ngược lại cuộc chiến đã qua Thiếu tướng thấy điều gì cần phải ghi nhớ và mổ xẻ như một kinh nghiệm sống không thể quên cho toàn dân tộc?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Khi cuộc chiến tranh chấm dứt rồi tôi đang bị cộng sản đày đọa, bây giờ nhìn ngược lại cuộc chiến tranh Việt Nam trong suốt hai mươi mấy năm chúng tôi đã chiến đấu để bảo vệ đất nước mà rốt cuộc chúng tôi không làm tròn nhiệm vụ của mình là bảo vệ người dân Việt Nam thoát khỏi ách cộng sản.

Tôi nghĩ cuộc chiến nó như thế này, cuộc chiến tranh Việt Nam nếu anh nhìn kỹ từ sau năm 1945 sau khi chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt thì Việt Nam là một điểm nóng trong chiến tranh lạnh kéo dài 50 năm giữa thế giới tự do và bên kia là cộng sản độc tài Nga và Trung cộng. Nó kèn cựa dành giựt từng quốc gia, từng tất đất để lấy ảnh hưởng của mình. Còn Việt Nam là điểm nóng trong cuộc chiến tranh lạnh đó. Nó lạnh nhưng Việt Nam thì nóng.

Bây giờ nhìn lại: Ai thắng, ai bại, ai thua, ai đau khổ nhiều nhất? Tôi thấy rốt cuộc lại thì Mỹ thắng, thắng vẻ vang trong cuộc chiến tranh lạnh kéo dài 50 năm. Mỹ đã hoàn toàn triệt tiêu chế độ cộng sản ở Liên xô.

Mỹ dùng chiến tranh Việt Nam để rồi bắt tay được với Trung Quốc. Họ đã hóa giải được với Trung cộng để kéo Trung Quốc về làm lực lượng của mình để rồi tiếp tục sức mạnh của Mỹ với sự để yên của Trung Quốc và chấp cánh thêm để đập tan Xã hội chủ nghĩa của Liên xô là mối đe dọa của thế giới tự do thì tôi thấy Mỹ đã thắng. Mỹ vì quyền lợi của họ cũng như thế chiến lược của họ, họ bội ước với VNCH, họ bỏ rơi VNCH đem VNCH dâng cho cộng sản Tàu để liên minh với cộng sản Tàu.

Không phải mình ghét hay căm thù mình nói mà đây là sự thật lịch sử. Tội đồ của dân tộc Việt Nam là cộng sản Việt Nam đã cõng rắn cắn gà nhà. Họ đã hiến dâng cái giang san này cho kẻ thù phương Bắc. Họ cầm quyền cai trị, đày ải dân mình. Họ dâng đất dâng biển của mình cho Tàu, cam tâm làm nô lệ cho phương Bắc đổi lấy quyền cai trị ngồi lên đầu dân tộc cỡi cổ vĩnh viễn.

Bây giờ tôi nói về nạn nhân của cuộc chiến tranh Việt Nam: toàn thể nhân dân cả hai miền Nam Bắc chứ không phải chỉ có miền Nam không mà là miền Bắc. Miền Bắc đã hy sinh rất nhiều những đứa con ưu tú của mình. Cái sức sống của quốc gia của từ 3 tới 4 triệu người. Rồi cũng cái tập đoàn đó nghe lời lường gạt họ gây tang tóc cho gần 1 triệu người ở miền Nam nữa. Năm triệu thanh niên miền Nam và miền Bắc đã chết oan uổng vì sự ngu xuẩn tàn độc của đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói đây là một thiệt hại to lớn cho dân tộc chúng ta do Cộng sản Việt Nam đã tạo ra cuộc chiến tranh này đưa Việt Nam đến sự đau khổ ngày hôm nay.

Sự đau khổ của người dân Việt Nam thì ai là người đau khổ tột cùng? Chính người phụ nữ Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc, nhất là ở ngoài Bắc thì nhiều hơn. Họ mất chồng, mất cha, mất con. Chính đây là sự đau khổ của chị em trong cuộc chiến tranh oan nghiệt này đã làm cho đất nước Việt Nam của chúng ta đầy tang tóc và nước mắt lúc nào cũng không ngưng chảy cho đến ngày hôm nay.

Chúng ta thấy rằng ngày nào họ còn cai trị đất nước thì cộng sản Tàu còn bành trướng theo kiểu mới đối với dân tộc của ta và dân tộc sẽ chết dần chết mòn đi đến diệt vong.

Mặc Lâm: Đó là với người cộng sản Việt Nam, riêng về Hoa Kỳ một thời từng là đồng minh cay đắng của VNCH thì ông có kinh nghiệm gì để chia sẻ thưa Thiếu tướng?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tôi nói như thế này, tôi có thương mà tôi cũng có buồn!

Tôi thương và kính trọng nhân dân Hoa Kỳ họ đã dang tay rộng mở đón tiếp chúng ta, lòng họ hào hiệp lắm nhờ họ mà chúng ta mới sponsor cho người Việt ngày nay. Những người mà tôi kính trọng, tôi thương và tôi khóc đó là những người lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam. Họ có lý tưởng anh à. Họ chiến đấu vì lý tưởng tốt đẹp cho tự do và họ làm tròn bổn phận công dân của họ nhưng vì thế lực chính trị của Hoa Kỳ, những thế lực mà tôi không ưa được. Họ sống theo mùa, họ sống như con cắc kè họ đổi màu đủ thứ hết trơn. Họ chỉ vì quyền lợi cá nhân của họ, họ vì quyền lợi đảng phái của họ mà họ đã giết cả một dân tộc người ta một cách tàn nhẫn không tiếc thương gì cả.

Họ cũng giết người dân tộc của họ một cách lạnh mình. Những người lính Mỹ từ Việt Nam trở về có được họ đón tiếp gì đâu? Những người này là anh hùng của nước Mỹ. Họ phải được nước Mỹ tôn sùng họ, kính trọng và tổ chức những lễ vinh danh họ cũng như lo cho đời sống của họ không để họ như ngày nay. Tôi trân trọng cám ơn tất cả những người Mỹ có lòng hào hiệp đã cưu mang dân tộc Việt Nam.

Mặc Lâm: Vâng, trong 40 năm qua bên cạnh những khó khăn mà người tỵ nạn gặp không thể không nhìn thấy những thành tựu của những người trẻ trên nhiều lĩnh vực. Thiếu tướng nghĩ gì về họ?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Ngày hôm nay tôi rất sung sướng mà nói với anh điều này: tuổi trẻ Việt Nam là nguồn sinh lực, một điểm tựa hết sức vững chắc cho tương lai Việt Nam sau này. Mình phân tích để thấy tuổi trẻ Việt Nam họ hội nhập nền văn minh các quốc gia mà họ lớn lên ở đây, họ gọi là tổ quốc của họ. Họ hoàn toàn không chịu một chút ảnh hưởng nào của nền văn hóa hủ lậu, lạc hậu của các triều đại phương Bắc vua chúa ngày xưa. Có những điều làm cho dân tộc không thể nào tiến bộ được.

Tuổi trẻ ở đây họ hoàn toàn thoát khỏi cái đó trong khi trong nước hỏi là làm sao thoát Trung, tội nghiệp tuổi trẻ trong nước! Tuồi trẻ hải ngoại đã hấp thụ được nền văn hóa phương Tây với văn minh khoa học kỹ thuật cũng như cuộc sống mới ngay thẳng, tự do, cởi mở hiểu được quyền con người. Đó là điều mà tôi hết sức tâm đắc.

Trong 40 năm qua đám trẻ của mình rất hiếu học, siêng năng, nó có truyền thống siêng năng từ cha mẹ đã làm vẻ vang cộng đồng Việt Nam khi đóng góp với cộng đồng hải ngoại. Từ Việt Nam sang đây họ lấy gia đình làm căn bản. Họ sống dưới sự giáo dục của cha mẹ cũng như cha mẹ họ có sự hào hùng do chống cộng sản ở bên kia. Họ lấy sự chết ngoài biển khơi để làm sự sống mới. Cái giá nó nặng lắm cho nên họ khuyên bảo dạy dỗ con cái và con cái họ cũng hiểu điều đó và rất thương gia đình. Họ hiểu thế nào là sự đau khổ của Việt Nam và họ biết quê mẹ của họ là Việt Nam.

Các thế hệ cha mẹ tiếp tục đi đừng xao lãng việc đó! Phải làm thế nào dạy dỗ cho con cái, hướng dẫn con cái mình phải biết lịch sử Việt Nam. Phải hiểu biết thật tường tận và trung thực. Thật trung thực chứ không méo mó sai lầm về lịch sử Việt Nam.

Nó biết cái đó để nó thương mình, nó thương những người đã chiến đấu để cho nó có cuộc sống ngày hôm nay như thế này. Mà khi nó thương cha mẹ nó thì tự nhiên nó thương nước Việt Nam.

Mặc Lâm: Đó là người trẻ, thích hợp với cuộc sống mới rất dễ dàng, còn riêng với thế hệ thứ nhất, những người cùng thời với ông khi ra nước ngoài ông có suy nghĩ gì về họ? Đặc biệt là đồng đội từng chiến đấu với Thiều tướng?

Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Thế hệ chúng tôi hồi tôi mới qua đây tôi thấy anh em buồn lắm. Mấy anh em có vẻ còn mặc cảm là người thua cuộc thì thường thường tôi hay đi nói với anh em đừng mặc cảm. Các anh em đã làm hết bổn phận của các anh em rồi, chúng ta bị ngoại cảnh cũng như bạn đồng minh không cho chúng ta dịp thắng, các anh em đã làm hết bổn phận rồi. Qua đây các anh em biến tất cả đau thương của mình, sự cực khổ của mình để dạy dỗ con cái để nó thay thế mình nó làm những chuyện mà mình không làm được, tôi nói mọi người hãy tiếp tục đi.

Mặc Lâm: Xin cám ơn Thiếu tướng Lê Minh Đảo về những chia sẻ mà ông vừa trình bày với thính giả, độc giả của Đài Á châu Tự do.


Nhân ngày Quốc Hận 30/4, Nhìn lại 30 NĂM CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
Luật sư Lê Duy San

 454

Đọc lại lịch sử, chúng ta thấy năm 1945, ngày 9 tháng 3, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Nếu bọn Việt Cộng không cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim và rước Pháp vào thì đây có thể nói là chính phủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam, một chính phủ tự do, độc lập và có chủ quyền vì chỉ ít lâu sau Nhật đã phải đầu hàng đồng minh.


Cali Today News - Đối với những người có một trình độ học vấn trung bình và được sống tại thành thị, thì hầu hết đều cộng nhận rằng cuộc chiến Việt Nam kéo dài suốt 30 năm, từ 1945 tới 1975 giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến (ngoại trừ Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn), mà là một cuộc chiến ý thức hệ: Cuộc chiến giữa Cộng Sản, độc tài chuyên chế và Quốc Gia, tự do dân chủ hay nói cho đúng hơn, giữa Chủ Nghĩa Cộng Sản và Chủ Nghĩa Tự Do. Bọn Cộng Sản miền Bắc Việt Nam được cả khối Cộng Sản mà trong đó, hai nước lớn nhất là Nga Sô và Trung Quốc hỗ trợ tối đa. Còn miền Nam Việt Nam chúng ta tức khối người Việt quốc gia  thì  được các nước trong thế giới tự do hỗ trợ mà đứng đầu là Hoa Kỳ.

Nói về chính nghĩa thì không người Việt quốc gia chân chính nào nói là Cộng Sản có chính nghĩa còn chúng ta (những người Việt quốc gia) không có chính nghĩa. Bởi vì chúng ta chiến đấu để bảo vệ cho người dân và đem lại tự do và dân chủ thực sự cho người dân chứ không phải để phục vụ cho bất cử quyền lợi của bất cứ quốc gia nào hay  chủ nghĩa ngoại lai nào. Còn Cộng Sản Việt Nam, với nhãn hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc” chỉ là bánh vẽ. Tuy miệng nói đem tự do dân chủ hạnh phúc cho dân nhưng thực tế chúng chủ trương độc tài và tước đoạt hết tất tài sản cùng các quyền tự do của con người. Mục đích của chúng là thi hành nghĩa vụ quốc tế, gieo rắc chủ thuyết Cộng Sản hòng nhuộm đỏ toàn thể thế giới . Bởi vậy có thể nói chúng ta lúc nào cũng có chính nghĩa. Nhưng hầu hết những người nông dân ở thôn quê cũng như những người lao động nơi chốn thị thành và ngay cả một số trí thức ngu xuẩn, hám danh bị Cộng Sản tuyên truyền và bịp bợm, cũng đều lầm tưởng rằng Cộng Sản có chính nghĩa.

Đọc lại lịch sử, chúng ta thấy năm 1945, ngày 9 tháng 3, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Nếu bọn Việt Cộng không cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim và rước Pháp vào thì đây có thể nói là chính phủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam, một chính phủ tự do, độc lập và có chủ quyền vì chỉ ít lâu sau Nhật đã phải đầu hàng đồng minh. Nhưng vì chính phủ Trần Trọng Kim qúa yếu hay nói cho đúng, các đảng phái quốc gia qúa yếu, lại không được nước nào hỗ trợ, trong khi đó thì bọn Cộng Sản VN không những được Cộng Sản Quốc Tế hỗ trợ, mà lúc đầu còn được cả Mỹ giúp đỡ. Vì thế chúng đã cướp được chính quyền rồi rước quân đội Pháp vào để rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Sau khi đã đạt được mụch đích đen tối này, chúng mới mở cuộc chiến chống Pháp vào ngày 19/12/46 để có chính nghĩa. Vì thế đối với người dân ít học, thấy chúng với chiêu bài chống thực dân Pháp đã cho rằng bọn Việt Cộng có chính nghĩa.

Người Pháp biết không thể nào thắng được Việt Cộng nên đành phải đã trao trả phần nào chủ quyền cho người Việt Quốc gia mà người lúc bấy giờ, Hoàng Đế Bảo Đại,  được coi như là đại diện. Các đảng phái quốc gia vì yếu thế đành phải chấp nhận Giải Pháp Bảo Đại, dựa vào người Pháp, để lập chính phủ, làm cho chính nghĩa của chúng ta bị lu mờ vì tuy là một quốc gia, nhưng vẫn còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, nói khác đi là vẫn còn lệ thuộc phần nào người Pháp. Việt Minh (Việt Cộng) vin vào đó để tuyên truyền. Do đó tuy có chính nghĩa mà người Việt Quốc Gia vẫn không được đa số người dân, nhất là giới nông dân, thợ thuyền tin tưởng.

Năm 1955, sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm truất phế vua Bảo Đại, yều cầu quân đội Pháp phải rút về nước và thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa tuy được Hoa Kỳ hỗ trợ, nhưng Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn độc lập và có chủ quyền, không hề lệ thuộc một nước nào, ngay cả Hoa Kỳ là nước hỗ trợ tích cực và mạnh mẽ nhất cũng phải tôn trọng. Vì thế chúng ta có thể nói, chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã làm cho chính nghĩa của chúng ta bừng sáng trở lại. Nhưng tiếc rắng chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ kéo dài đươc 8 năm. Đến năm 1963, một số tướng lãnh bất hảo đã nghe theo lời xúi dục của Hoa Kỳ làm đảo chánh, lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho phép Mỹ đưa quân đội vào Việt Nam để bọn Việt Cộng có cớ tuyên truyền là Hoa Kỳ xâm lược miền Nam VN và miền Nam VN lệ thuộc Hoa Kỳ. Đây có thể nói là lần thứ hai chính nghĩa của chúng ta lại bị lu mờ khiến người dân lại không còn tin tưởng vào chính nghĩa của chúng ta.

Đó là đối với quốc nội tức đối với nhân dân Việt Nam. Còn đối với thế giới thì sao?

Chiến tranh 1946-1954, quân đôi Pháp đánh nhau với Việt Cộng là chính, quân đội Quốc Gia Việt Nam nằm trong quân đội Pháp chứ không phải là quân đội độc lập, riêng rẽ. Vì vậy đối với thế giới, chúng ta vẫn không được coi là một quốc gia có độc lập và chủ quyền.

Hãy nhìn vào cuộc hòa đàn Geneve 1954. Mặc dầu Cộng Sản Việt Nam được cả khối Cộng Sản hỗ trợ, nhất là hai nước Nga Sô và Trung Quốc, nhưng trong bàn hội nghị, chúng vẫn để Cộng Sản Việt Nam ngồi ở vị trí quan trọng nhất để nói chuyện trực tiếp với Pháp, còn chúng chỉ ngồi bên cạnh cho có chứ không hề ra mặt trực tiếp thương thảo, mặc dầu mọi quyết định của Việt Cộng đều phải được Nga Sô và Trung Quốc chấp nhận. Trái lại bên phía Quốc Gia Việt Nam, thì Pháp lại giành vai trò chính để nói chuyện trực tiếp với Việt Cộng, chỉ để Quốc Gia Việt Nam đóng vai phụ và ngồi ở vị trí thứ yếu, làm cho thế giới có cái nhìn là Quốc Gia Việt Nam không có chính nghĩa, không có chủ quyền vì còn lệ thuộc Pháp.

Cuộc hòa đàm Paris 1973 cũng vậy, Cộng Sản Quốc Tế đứng đầu là Nga Sô và Trung Quốc, hỗ trợ hết mình cho Cộng Sản Việt Nam, không những về vật chất, súng đạn, mà cả quân đội và chỉ huy cả trận chiến, nhưng chúng cũng không hề để lộ diện trên chiến trường cũng như trên bàn hội nghị. Tại bàn hội nghị, chúng cũng để cho Cộng Sản Việt Nam ngồi ở vị trí quan trọng nhất để nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, còn bọn chúng chỉ ngôi ở những vị trí thứ yếu để hổ trợ tinh thần mà thôi, mặc dầu trên thực tế, nhất cử, nhất động,  bọn Việt Cộng đều phải hỏi quan thầy Nga Sô và Trung Cộng. Trái lại, Hoa Kỳ thì luôn luôn chường mặt ra, không những ở trên chiến trường mà cả trong bàn hội nghị cũng giành lấy ngồi ở vị trí quan trong nhất và nói chuyện trực tiếp với Cộng Sản Việt Nam, để Việt Nam Cộng Hoà ngồi ở vị trí thứ yều, đóng vai phụ làm cho thế giới có cảm tưởng là Việt Nam Cộng Hòa cũng là một nước lệ thuộc Hoa Kỳ, không có chủ quyền vì vậy chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa cũng bị lu mờ.

Ngày nay, với những biến cố mất đất, mất biển, mất trên 10,000 cây số vuông ở biên giới Việt Trung, mất ải Nam Quan, thác Bản Giốc, mất Trường Sa, Hoàng Sa và  ngay cả một phần trung tâm lãnh thổ Việt Nam, vùng Cao Nguyên Trung Việt, bọn Cộng Sản Việt Nam cũng để cho Trung Quốc tự do khai thác Bô Xít. Sinh viên học sinh và đồng bào trong nước biểu tình chống Trung Quốc xâm lược đã bị ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam cấm đoán và bắt bớ. Với vụ rước đuốt thế vận hội 2008 của Tầu Cộng ngay tại Hà Nội, Saì Gòn, bọn Cộng Sản Việt Nam đã cho công an bảo vệ, để lòi bộ mắt bán nước và lệ thuộc Trung Cộng thật rõ ràng. Chúng không còn có thể lừa bịp đồng bào trong nước cũng như thế giới được nữa; Chính nghĩa mà bọn Cộng Sản Việt Nam rêu rao do sự tuyên truyền và lừa bịp mà có được, không còn nữa.

Ngay nay, không phải chỉ có những người Việt Hải Ngoại tỵ nan Cộng Sản mới chống Cộng, mà người trong nước và ngay cả những người đã từng đi theo Việt Minh, Cộng Sản từ 1945 và có tới 4, 5 chục tuổi đảng cũng chống Cộng. Điển hình là cựu Trung Tá Quân Đội Cộng Sản Trần Anh Kim, nguyên bí thư đảng ủy tỉnh Thái Bình, trong một cuộc phỏng vấn của ông Hoàng Hà (Tiếng Nói Đa Nguyên) ông Trần Anh Kim nói “Không phải là Mỹ xâm lược Việt Nam mà là Trung Quốc xâm lược Việt Nam và gọi bọn lãnh đạo Việt Nam là môt “lũ  hèn nhát”, là  một “Tập Đoàn Lừa Đảo”. Ông công nhận trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, quân đội VNCH giữ Hoàng Sa là những người anh hùng của dân tộc.

Anh Đặng Xuân Khánh, một sinh viên trẻ hiện đang sống tại Việt Nam trong bài “Đâu là sự thật” đã viết: “Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như “chế độ khát máu Mỹ-Diệm”,”miền Nam bị Mỹ, nguỵ kìm kẹp”, “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”, “ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ”, “giải phóng miền Nam” v.v…Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường”. 

Đối với lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ không phải chỉ những người những miền Nam, đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà hay được hưởng được hưởng những ân huệ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới trân qúy và bảo vệ  mà ngay cả những người sinh ra dưới chế độ Cộng Sản và được dậy dỗ bởi Cộng Sản cũng mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày tung bay khắp vùng trời Việt Nam. Trong bài “Còn Cờ Đỏ Sao Vàng Thi Không Bao Giờ Có Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” đăng trong tờ báo chui trong nước, tờ “Báo Sinh Viên Yêu Nước”, tác giả nói “lá cờ vàng ba sọc đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam”.

Trong chiến tranh Việt Nam, bọn Cộng Sản Hà Nội tuyên truyền rằng lính Việt Nam Cộng Hòa là lính đánh thuê cho Mỹ vì chính Mỹ đã trả lương cho lính Việt Nam Cộng Hòa để đánh lại Quân Đội Nhân Dân của Hà Nội. Sự tuyên truyền này của Việt Cộng không phải chỉ có người dân quê ít học mới tin, mà ngay cả một số lớn sinh viên, trí thức cũng tin theo. Nhục nhất là ngay cả Nguyễn Cao Kỳ, một tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa, đã từng làm Chủ Tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương, một chức vụ như Thủ Tướng và Phó Tổng Thống thời đệ nhị VNCH cũng không ngượng miệng khi tuyên bố rằng quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”.

ijio imagesnnn

Gần đây, chúng ta lại thấy ở Việt Nam có một đền thờ to lớn thờ tên Việt Cộng Lê Duẩn mà trên cổng chính của đền thờ có khẩu hiệu như sau: “Ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”

 LeDuan_VCDanhCuopMienNamChoNgaTau

                                           Đền thờ Lê Duẩn, Thủ Lãnh bọn lính đánh thuê Việt Cộng

Vậy thì chính nghĩa thuộc về ai? Quân Đội VNCH hay Quân Đội Nhân Dân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?

Tuy nhiên, vì sự bưng bít thông tin của Việt Cộng, vẫn còn nhiều đồng bào trong nước không biết nhiều về hiện tình đất nước, nhất là các đồng bào ở các vùng thôn quê. Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải làm sao cho đồng bào cả nước, nhất là giới nông dân, thợ thuyền, thấy rõ được cái tội buôn dân, bán nước của bè lũ Cộng Sản Việt Nam cũng như bản chất nô lệ của chúng mà vùng dậy, đứng lên lật đổ chế độ Cộng Sản Việt Nam, một chế độ nô lệ cho Trung Quốc, một chế độ hại dân, hại nước, chỉ biết mãi quốc cầu vinh, chỉ biết tham nhũng và ức hiếp đồng bào, để xây dựng một chế độ tự do dân chủ thực sự, một chế độ mang lại sự ấm no, hạnh phúc thực sự cho dân tộc, giầu mạnh cho đất nước.

Luật sư Lê Duy San



Nói với người cộng sản
rddlsn 

cvbSau đây, mời quý thính giả theo dõi chuyên mục "Nói với người cộng sản". Đây là diễn dàn để trình bày với các đảng viên đảng CSVN, đặc biệt những người đang phục vụ trong guồng máy công an và bộ đội của chế độ hiện hành. "Nói với người cộng sản" do Tiến Văn biên soạn, qua sự trình bày của Dian.

Thưa quí vị đảng viên cộng sản lâu năm cùng các bạn công an, bộ đội,

Ông Võ Văn Kiệt, cố thủ tướng của chính quyền cộng sản Việt Nam trong một chuyến công du tới Thái Lan trước đây có bày tỏ sự tự hào rằng Việt Nam đã đánh thắng mấy đế quốc to nhất thế giới. Đáp lại cử chỉ đó của Võ Văn Kiệt, ông Thủ tướng Thái Lan nói rằng ông cảm thấy tự hào vì đất nước Thái Lan của ông không phải đánh nhau với các đế quốc lớn.

Còn ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng Singapore, người vừa mới qua đời cách đây mấy tuần, cũng có một nhận định nổi tiếng: "Chỉ có ngu mới đi chống Mỹ."

Thưa quí vị, quí bạn, những gì đang diễn ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta ngày hôm nay cũng cho thấy những người dân Việt Nam đã nghe theo hoặc phải nghe theo đảng cộng sản Việt Nam để chống Mỹ, đánh Mỹ và đuổi Mỹ là một việc hết sức sai lầm.

Sai lầm đó nhân dân ta đã phải trả bằng những cái giá cực kỳ đắt và đau đớn: hàng triệu thanh niên nam nữ đã phải bỏ mạng trên chiến trường và nhiều triệu người khác đã trở thành thương phế binh, đất nước bị tàn phá, chia li, lòng người tan nát mà kết cục cuối cùng chỉ để cho tất cả giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay trở thành các nhà đại tư bản thân Mỹ và đất nước ta lại đang rất cần Mỹ trợ giúp trong công cuộc bảo vệ chủ quyền trước sự xâm lấn của Trung Cộng - kẻ đã bảo trợ cho đảng cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến chống lại Việt Nam Cộng Hòa và người Mỹ tại miền Nam Việt Nam trước đây.

Thế nhưng, như quí vị và quí bạn đang thấy, hàng năm cứ đến dịp tháng Tư nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại chỉ thị cho các cơ quan thông tin đại chúng ra sức tuyên truyền kỷ niệm cho cái gọi là "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước" với nhiều mĩ từ hào hùng. Năm nay các chương trình tuyên truyền đó còn được chi phí, đầu tư nhiều hơn vì năm nay là tròn 40 năm xảy ra biến cố 30 tháng Tư.

Những luận điệu và từ ngữ tuyên truyền trong dịp này của đảng cộng sản Việt Nam vẫn không có gì tiến bộ. Họ vẫn chỉ đạo báo đài thể hiện giọng điệu hợm hĩnh của kẻ chiến thắng, vẫn coi Mỹ là kẻ thù, là kẻ xâm lược và vẫn gọi chế độ Việt Nam Cộng Hòa là "ngụy", là chế độ tay sai cho ngoại bang.

Nhưng trong 40 năm đã qua đã có ba sự thật lớn đã hiển lộ rất rõ ràng.

Thứ nhất, Mỹ không hề xâm lược Việt Nam. Mỹ chỉ là một đồng minh thân cận của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã tích cực trợ giúp Việt Nam Cộng Hòa bằng binh sĩ và phương tiện để bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam, chống lại làn sóng đỏ cộng sản từ Trung Cộng và Bắc Việt tràn xuống phía Nam Việt Nam và vùng Đông Nam Á. Mọi chính sách của Mỹ và trên thực tế Mỹ đã không chiếm giữ một tấc đất nào của lãnh thổ Việt Nam. Kẻ đã xâm lược, và thôn tính nhiều lãnh thổ Việt Nam chúng ta lại chính là Trung Cộng với sự tiếp tay của chính quyền cộng sản Bắc Việt. Điển hình cho sự câu kết Trung Cộng-Bắc Việt trong việc thôn tính lãnh thổ Việt Nam chúng ta là hai sự kiện: Công hàm năm 1958 do Phạm Văn Đồng ký dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và chính quyền cộng sản Bắc Việt đã im lặng để mặc Trung Cộng tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974.

Sự thật thứ hai đã hiển lộ rõ trong 40 năm qua là chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ nhân bản, tự do, có nền tảng dân chủ ưu việt hơn hẳn chế độ cộng sản miền Bắc. Cách đây hơn 40 năm, hệ thống giáo dục, y tế của Việt Nam Cộng Hòa vẫn ưu việt và tử tế hơn rất nhiều hệ thống giáo dục "nhồi nhét, làm tiền con trẻ" và hệ thống y tế "phong bao, làm tiền con bệnh" của Việt Nam ngày nay dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa người dân đã được thực hiện nhiều tự do cơ bản như báo chí tư nhân, biểu tình, lập hội, lập đảng, trái ngược hẳn với chính sách cấm đoán và trấn áp các nhân quyền cơ bản, kể cả quyền yêu nước, trong chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay. Điều quan trọng hơn và cơ bản hơn là chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã đi đúng hướng phát triển của nhân loại: đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, làm bạn, làm đồng minh với các nước tư bản cường quốc.

Sự thật thứ ba đã ngày càng hiện rõ trong 40 năm qua là chế độ cộng sản Việt Nam là một chế độ phụ thuộc Trung Cộng, hèn nhược với Trung Cộng, đã tiếp tay và tiếp tục tiếp tay cho Trung Cộng xâm lấn và thôn tính Việt Nam từng bước. Từ Công hàm Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh 1958, Hiệp định biên giới Việt-Trung 1990 cho tới Viện Khổng Tử 2015, từ quần đảo Hoàng Sa bị mất năm 1974, thác Bản Giốc, Ải Nam Quan bị lùi sang đất Trung Cộng năm 1990 cho tới những dự án của Trung Cộng chiếm lĩnh các địa thế chiến lược từ Bauxite Tây nguyên 2007, Thuê rừng đầu nguồn 2010, khu công nghiệp Vũng Áng 2014 đã ngày càng cho thấy rõ chế độ cộng sản Việt Nam ngay từ ngày đầu nắm quyền cho tới nay đã liên tục nhượng bộ, tiếp tay cho Trung Cộng từng bước khống chế, chiếm giữ và thôn tính đất nước Việt Nam chúng ta.

Thưa quí vị, quí bạn đó là ba sự thật cơ bản mà bất cứ một người Việt Nam nào còn lương tâm đều không thể phủ nhận.

Vì thế ngày 30 tháng Tư chỉ có ý nghĩa tốt đẹp, có lợi cho những kẻ lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Còn đối với dân tộc ta, nhân dân ta, đất nước ta, ngày 30 tháng Tư chỉ là một ngày gợi lại những mất mát, đau thương, sai lầm và hổ nhục.

Dian và Tiến Văn thân chào tạm biệt và hẹn gặp lại.

Tiến Văn



40 năm hỗn danh “ngụy” và những trận đòn thù của ác quỷ!

imagesnhn
Lê Thiên (Danlambao)
 - Con người Việt Nam vốn nặng tình quê hương Tổ Quốc. “Bỏ nước” là bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, là bỏ mồ mả ông bà cha mẹ, bỏ quê cha đất tổ… Thế mà, sau 30/4/1975, người dân Miền Nam Việt Nam, hàng triệu người hăm hở ra đi, cách này hay cách khác, bằng mọi giá, kể cả cái giá của chính sinh mạng mình: Vượt biên, vượt biển đầy hiểm nguy, bất trắc, chín mất một còn, vẫn lao vào cõi chết để tìm sự sống! Từ 400 đến 500 ngàn người mất xác giữa biển cả làm mồi cho cá mập vì bị hải tặc sát hại hay bão tố đánh chìm tàu ghe! Hoặc bị phanh thây bởi thú rừng nơi hiểm hóc xa xôi không ai biết. Vì sao?


Những nạn nhân bị triệt đường sống.

Cách đây 40 năm, ngày 30/4/1975! Việt Nam Cộng Hòa, tức Miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Vô sản chuyên chính ngự trị! Quả không có tắm máu, nhưng tang thương bao trùm! Toàn Miền Nam Việt Nam rướm máu! Bế quan tỏa cảng! Lao động khổ sai quần quật! Đói rách triền miên! Bắt bớ! Dọa dẫm! Hiếp đáp! Tù đày! Khủng bố trắng kéo dài, năm này sang năm khác! Không ít người bị thủ tiêu, mất tích! 

Người dân Miền Nam Việt Nam bị tròng vào cổ cái ách nô lệ thời đại mới với bao điều thống khổ, sống dở chết dở, ngoại trừ một số rất nhỏ những phần tử nằm vùng tiếp tay cho CS phá hoại Miền Nam. Không ai còn lựa chọn nào khác để bảo đảm một cuộc sống an bình về tâm hồn, lành mạnh về thể xác, một cuộc sống trong đó lẽ ra mọi người đều bình đẳng cùng hưởng những quyền tự do tối thiểu như nhau.

Suốt chặng đường dài 30-40 năm, người Việt Nam nơi đất khách, như trên đất nước Hoa Kỳ chẳng hạn, ai mà chẳng trải nghiệm đôi lần bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử? Ở bên nhà, mỗi lần vớ được một tin tức kỳ thị tại Hoa Kỳ, CSVN không bỏ cơ hôi khai thác, phóng đại thành những hình ảnh vô cùng đen tối và ghê rợn. “Nước Mỹ là thế đấy! Bạo hành! Cướp giật! Kỳ thị nhan nhản!” Trong khi đó, trên thực tế, các vụ kỳ thị ở Mỹ phần lớn mang tính cá nhân hay bè nhóm riêng lẻ ở một xứ sở gọi làHợp Chủng Quốc– nước củanhiều chủng tộc, nhiều sắc dântừ khắp thế giới tấp nập dồn về hàng ngày, hàng giờ! Làm sao tránh khỏi những va chạm về màu da chủng tộc hay văn hóa, ngôn ngữ và tập quán? Nhưng hoàn toàn thua xa chính sách, chủ trương phân biệt đối xử do chế độ CS tại Việt Nam dựng lên từ 1975 đến nay, mà nạn nhân đứng đầu bị kỳ thị là những người cộng tác với chính thể VNCH cùng thân nhân của họ! 

Kỳ thị tại Việt Nam dưới chế độ cộng sản.

CSVN luôn vỗ ngực tự cho mình“ưu việt”, là“đỉnh cao trí tuệ loài người”, là lực lượng“bách chiến bách thắng dưới ngọn cờ Mác-Lê vĩ đại”! Từ cái não trạng kiêu đảng (tự tôn mặc cảm) này cộng với nỗi sợ mất đi độc quyền đảng trị (do tư ti mặc cảm), nhà cầm quyền CSVN càng đẩy mạnh chính sách phân biệt đối xử tới chỗ kỳ thị không khoan nhượng qua chiêu bàiđấu tranh giai cấp và phân biệt lằn ranh đảng-ngụy! 

Kỳ thị giai cấp.

Thấy gì trong đấu tranh giai cấp của CSVN?

Năm 1954, CSVN dưới tên gọi là Việt Minh (VM) cấu kết với thực dân Pháp chia đôi đất nước Việt Nam thành hai miền. Qua Hiệp Định Genève 1954, CSVN hiến dâng Miền Nam cho thực dân Pháp, VM thống trị Miền Bắc. Quốc gia Việt Nam tẩy chay Hiệp định vì nó vi phạm nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ” của quốc gia dân tộc. 

Tại Miền Bắc, VM nhận lệnh của quan thầy Mao Trạch Đông bên Tàu, thực hiện Cải Cách Ruộng Đất, phát động những cuộc đấu tố man rợ nhắm vào các thành phần “trí, phú, địa, hào, tư sản”. Hàng trăm ngàn người Việt Nam bị tố oan, tù oan, giết oan. Dân chúng quê mùa chất phác và cả trẻ em bị cán bộ VM lùa đi, ép phải dự những phiên đấu tố mất tính người, phải hò hét“Giết nó! Giết nó đi!” 

Thực hiện khẩu hiệu“giết lầm hơn bỏ sót”, đảng cộng sản chẳng phải chỉ hô hào“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ”(Tố Hữu) mà còn xúi giục và cả bức bách con cái đấu tố cha mẹ, vợ chồng đấu tố lẫn nhau, bà con, hàng xóm láng giềng rình rập nhau, tố cáo lẫn nhau, buộc tội cho nhau, kết án nhau và dìm nhau chết để cho“vô sản chuyên chính”lên ngôi toàn trị! 

Một trận càn quét mang tính kỳ thị vô nhân đạo được thực hiện dưới danh nghĩa“đấu tranh giai cấp”như Xuân Diệu hô hào: 

Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranhtiêu diệttàn hungtử thù,
Địa hào, đối lậpra tro,
Lưng chừng phản động đến giờtan xương.
...

Mọi giềng mối quan hệ tình nghĩa luân lý tốt đẹp bị đảo lộn và triệt tiêu hoàn toàn.

Lôi cổbọn nó ra đây,
Bắt quỳ mọp xuống đọa đàychết thôi!...

Sách báo đã nói nhiều về Cải Cách Ruộng Đất cùng với những hệ lụy của nó. Người ta ước tính có hơn 160 ngàn người là nạn nhân của những cuộc đấu tố sắt máu dã man trên. 

Kỳ thị đảng -- ngụy.

Ngoài Bắcthì kỳ thị giai cấpnhư vậy. Trong Nam thì sau khi thắng cuộc, CSVN đánh vào toàn thểquân-dân-cán-chínhMiền Nam Việt Nam bằng một cuộc đấu tranh khác. Đó làKỳ thị đảng -- ngụy. Kể cả khi cần tranh thủ nhân tâm như thời Tết Mậu Thân 1968 ở Huế cũng như sau khi đã thắng trận (1975), CSVN luôn đặt chính sáchkỳ thị đảng – ngụylên hàng đầu hầu bảo đảm sự sống còn và vai trò thống trị độc quyền độc đảng trên cả nước. 

Những ai phục vụ trong Chính quyền VNCH dù ở đẳng cấp nào từ Trung ương xuống xã ấp, như thư ký xã, chạy công văn cũng đều làNGỤY QUYỀN. Tham gia Quân lực VNCH dù là anh binh nhì, chú Nghĩa quân cũng làNGỤY QUÂN. Người dân có thân nhân dính líu tới “ngụy quân”, “ngụy quyền” thì làDÂN NGỤY

Sức tuyên truyền, nhồi sọ kiểu tẩy não của CSVN thật là khủng khiếp! Cái từ “NGỤY” trở thành một thứ khắc tự nung lửa đóng vào đầu, vào trán và sau lưng hàng triệu nạn nhân như thế. Cả đám trẻ nít mới cắp vở tới trường cũng bị nhét vào đầu những từ ngữ mất dạy để chúng “vô tư” hỗn xược với các bậc cha ông của chúng:thằng ngụy, tên ngụy, bọn ngụy, lũ ngụy…

“Đánh cho ngụy nhào”!Chưa hả hê sao? Hạ nhục và nhận sâu người ta xuống hàng chó ngựa từ bao chục năm, vẫn chưa thỏa lòng sao? Tiếp tục gây hận thù, hiềm khích đến bao giờ mới thôi trong khi mồm cứ lải nhải“hòa hợp hòa giải” láo toét? 

Có kỳ thị không trong cách gọi tên?

Có một thời, tại Miền Nam Việt Nam, người ta thỉnh thoảng nghe tới những từ“Cộng phỉ”và “Cộng nô”. Nhưng rồi hai nhóm từ ấy vắng bóng dần. Sau 1975, tại hải ngoại, có người gợi ý dùng lại từ“Cộng phỉ”để nói lên bản chất ăn cướp và gian ngoa của CSVN. Hay từ“Cộng nô”để nói về tính chất nô dịch, tôi đòi của CSVN đối với Tàu Cộng và Liên Xô. Hoặc gọi là“Cộng tặc”để chỉ cái căn tính gian ác, điêu ngoa, đạo tặc của CSVN. Rất chính xác! Nhưng người dân Miền Nam Việt Nam vốn xởi lởi khoan dung, nặng tình người, nên những từ ấy không còn phổ biến tuy ai cũng biết PHỈ, NÔ và TẶC là cốt cách, là bản chất của CSVN. Lại những từ ngữ ấy không hề là chủ trương hay mệnh lệnh xuất phát từ những nhà lãnh đạo quốc gia VNCH trước năm 1975, mà chỉ là những “hỗn danh” mang tính đối phó dân gian mà thôi.

Còn cái tên gọi“Việt Cộng”thì chỉ là viết tắt từCộng sản Việt Nam! Nó không hề ngụ ý hạ nhục. Cộng sản Việt Nam trước kia đã chẳng tự nhận mình làViệt Minhsao?Việt MinhViệt Nam Độc Lập Đồng Minh Hộiđấy. Những từ ngữ viết tắt kiểu như vậy đâu xa lạ gì với ngôn ngữ Việt Nam!Việt CáchViệt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.Việt QuốcViệt Nam Quốc Dân Đảng.Việt TânViệt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, vân vân. 

Về tên người cũng thế, người dân VNCH thể hiện tấm lòng độ lượng của mình trong cả cách gọi tên. Chẳng hạn, họa hoằn mới thấy có một bài báo hay một người nào đó gọi tắt Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… làMinh, Duẩn, Chinh… Đó không hề là chủ trương của nhà cầm quyền VNCH trước 1975! Trong khi đó đối với các nhà lãnh đạo VNCH, nhà cầm quyền CSVN luôn buộc cả cán bộ lẫn dân chúng phải dùng một lối gọi hoàn toàn vô văn hóa, mất dạy, nhưMỹ-Diệm,Mỹ-Thiệu…hoặcthằng”này,“con”nọ,“tên”kia, với các bậc đáng tuổi cha, tuổi mẹ, ông, bà. Nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả quyển Đêm Giữa Ban Ngày, xác nhận: Báo chí, sách vở tại miền Bắc đều được lệnh phải gọi tất cả những nhà lãnh đạo các nước không theo Cộng Sản là“thằng”để tỏ ra là có lập trường giai cấp. Theo ông Hiên, cái thói gọi bằng“thằng”là do chính ông Hồ Chí Minh đặt ra, chẳng phải chỉ gọi nhà lãnh đạo VNCH là“thằng Ngô Đình Diệm”, (sau này là“thằng Thiệu”,“thằng Kỳ”), mà còn cả với nhà lãnh đạo Singapore, cũng là“thằng - thằng Lý Quang Diệu”chỉ vì các vị trên đều chống chủ nghĩa Cộng sản.

“Ngụy”! – Còn từ nào độc địa hơn? 

Cái từ“ngụy”mà CSVN gán choquân-dân-cán-chínhVNCH rõ ràng là từ ngữ bộc lộ cách gọi hoàn toàn vô giáo dục xuất phát từ miệng lưỡi bệnh hoạn hôi hám của phường bất lương hạ cấp! Bộ máy tuyên truyền CSVN phổ biến cái “hỗn danh” mất dạy ấy, cấy nó vào đầu óc người dân, để ai nấy khi nói tới “ngụy” là nói tới những thứ ghẻ lở cùi hủi gớm ghiếc. Trong khi trên thực tế, những người bị đóng khắc tự “ngụy” chẳng làm gì phản dân hại nước cả. Chính nghĩa họ sáng ngời trong việc họ hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc từ nội địa tới tận các vùng biển đảo xa xôi! 

Trái lại, ai hèn với giặc, ác với dân, cả nước đều rõ! Bằng chứng rành rành! Thậm thụt nộp đất, dâng đảo cho Hán tặc, là ai, ai là thủ phạm? Còn biết bao điều bí mật, rồi đây trước sau gì cũng sẽ “thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi”! Cái bọn mại quốc cầu vinh ấy, cứ theo phép nước của vua Lê Thánh Tôn mà tru di chúng là vừa! 

Khốn nạn thay! Tất cả những nạn nhân bị gán cho cái nhãn NGỤY đều bị loại ra khỏi dòng sinh hoạt của dân tộc, bị chặn đường sống, chặn đường tiến thân, cả gia đình bị dìm vào cái án “lý lịch đen” muôn năm với từ “ngụy” tô đậm! 

Là “ngụy” thì đâu có quyền sống cuộc sống yên hàn. Đâu có quyền sở hữu tài sản đáng giá, nhất là bất động sản ở thị xã, thành phố. Đâu được quyền có công ăn việc làm xứng hợp với khả năng, kiến thức hay sở trường chuyên môn. Và dĩ nhiên cũng mất đi quyền có một chỗ đứng xứng đáng trong xã hội! Nông thôn sẽ là nơi cư trú cố định cho “thành phần ngụy” với sự giám sát và quản lý của HTX/NN và chính quyền địa phương. Chỉ cạp gốc rạ, ăn tro mò trấu! Con cháu của “ngụy” phải chịu chung một số phận cha ông của chúng! Suối đời mang bản án “ngụy” cùng mọi hệ quả mà bản án chung thân truyền đời ấy định đoạt! 

“Ngụy ác ôn”.

Xin ghi lại đây lời kể của một bà mẹ:Năm 1983, đứa con trai 10 tuổi của tôi theo học tại trường học xhcn ở vùng nông thôn. Một hôm, sau buổi học, về nhà cháu bỗng lăn ra vật vã trên giường, khóc sướt mướt. Hỏi mãi điều gì đã xảy ra. Nó cứ lắc đầu và không hết khóc. Cuối cùng, nó hỏi tôi: “Ba ác ôn lắm hở mẹ? Ác ôn làm sao?” 

Tôi lờ mờ đoán ra được điều gì, nhưng vẫn hỏi lại con mình: “Ác ôn thế nào? Ai bảo thế?” Thằng con tôi nói: “Cô giáo, cô giáo người Bắc kêu học trò trong lớp hãy cảnh giác lánh xa cái thằng con của ‘tên Cảnh sát ngụy ác ôn’; nếu không, điểm đạo đức sẽ bị hạ xuống loại kém!” 

Tôi nghẹn ngào chảy nước mắt cùng với con mình! 

Điều đáng buồn là ngay sau biến cố trên, trường học xhcn ở Việt Nam trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho đứa con trai tôi. Bạn bè nó nhìn nó bằng những con mắt khác, nghi ngờ trộn lẫn khinh chê! Nó mặc cảm với hết mọi người ở đó, luôn tìm cách vắng lớp, bỏ học. Nhà trường thì coi đó là dịp để loại trừ một phần tử nguy hiểm cho chế độ - con của “cảnh sát ngụy ác ôn”! 

Cái án dành cho “con ngụy” không phải chỉ chừng ấy thôi. Nó bao trùm nhiều mặt trong mọi lãnh vực, hận thù đằng đẳng vô cùng dã man.

Phân loại đối tượng(1) trong giáo dục. 

Chẳng hạn, CSVN tổ chức xây dựng đoàn-đảng trong trường học, dùng học sinh“con cái cách mạng”như là“hạt nhân đỏ”nắm giữ các chức vụ chi ủy đảng/đoàn nhà trường, hoặc trưởng lớp, trưởng trường, mà nhiệm vụ chính là bám sát, theo dõi, báo cáo mọi hành vi của đám học sinh đối tượng - “con cái bọn ngụy ác ôn”. 

Từ hồ sơ nhập học tới phiếu điểm, sổ điểm, học bạ, mọi thứ đều thông quachính sách phân loại đối tượng(gồm 14, 15 cấp đối tượng khác nhau). Những học sinh thuộc diện“Thứ nhất con lai, Thứ hai con ngụy, Thứ ba Thiên Chúa giáo"(2) đều là đối tượng từ số 11 tới 15, đứng cuối bảng vì… “lý lịch đen”!

Còn cái nhóm gọi là con nhà cách mạng dĩ nhiên “ưu tiên 1”. dù học hành, đạo đức chẳng ra gì, hầu hết u mê dốt nát, đầu trộm đuôi cướp, lưu manh, ngỗ ngáo! Vẫn ngồi trên đầu thiên hạ! 

Tội nghiệp cho thân phận các em con lai, con ngụy, Thiên Chúa giáo, trở thành những đứa trẻ bên lề xã hội, chúng buộc phải bỏ trường, bỏ lớp, cù bơ cù bấc, cu li cu liếc, lang thang bươi rác nhặt ve chai hay lao vào những ổ ma túy, trộm cắp, du côn du đảng! Để rồi người ta vin vào đó mà la toáng lên: chúng nó đó,“tàn dư văn hóa đồi trụy Mỹ-ngụy”.

Thú nhận có phân biệt đối xử.

Năm ngoái, ngày 03/4/2014, người ta đọc thấy trên báo Đất Việt một bài của tác giả Thuận Hòa nhan đềTrăn trở về hòa hợp dân tộc của cố Thủ tướng. Bài viết cố ý gợi nhắc lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt rằng“Có một thời kỳ sựhẹp hòi, thành kiến và đố kỵđã làm tổn thương tình cảm của dân tộc... Thay vì phải làm sao giảm bớt nỗi đau của những gia đình Việt Nam có người thân… phải cầm súng... và đã tử trận, thì cho đến bây giờ vẫn còn nhiều trường hợp bịphân biệt đối xử. Không ai lựa cửa để sinh ra. Vì vậy, chúng takhông nên khoét sâu thêm vết thươngtrong lòng mỗi người Việt Nam.”.

Tác giả lại trích lời ông Gs Cao Huy Thuần (cán bộ CSVN tại Pháp) nói rằng“Đã gọi là dân tộc,sao còn phân biệt ngoài với trong, sao còn chia năm xẻ bảy hạng người Việt này với hạng người Việt kia?” 

Thuận Hòa còn trích dẫn lời phát biểu của ông Võ Văn Sung, cựu đại sứ CSVN tại Pháp:“Những người bị ép cầm súng vì không trốn lính được đó phải mang cái án suốt đời, đó làán ‘ngụy quân’. Còn người làm trong chính quyền cũ cũng mang cáián ‘ngụy quyền’... Sựphân biệt đối xửkéo dài nhiều năm và khó có thể kể hết những tổn thất từ đó sinh ra. Sự tổn thất không chỉ đối với cá nhân mà đó là thiệt hại chung cho cả xã hội.”

Võ Văn Sung còn nêu rõ:“Duy chỉchủ nghĩa lý lịchthôi cũngvùi dậpkhông biết bao nhiêu nhân tài hoặc người có năng lực. Cókhông ít học sinh thi đậu đại học nhưng không được học. Các em không thể ‘lựa cửa để sinh ra’ nhưng phải chịu trách nhiệm về việc làm của cha mẹ mình”.

Những trích dẫn trên cho thấy những điều chúng tôi trình bày trong bài này là sự thật, không hề tô vẽ, thêm bớt. 

Phân biệt đối xử tài năng.

Sự đối xử mang tính loại trừ và triệt tiêu đường sống“thành phần ngụy”không là chuyện riêng lẻ cá biệt, mà là mộtsách lược trường kỳcủa cái đảng không có tính người, chủ trương đày đọa đến cùng hết mọi đối phương! Nghĩa là hàng triệu người dân Miền Nam Việt Nam đã là“ngụy”, thì muôn đời cứ là“ngụy”, là kẻ thù của chế độ CS, là những kẻ hoặc phải vất ra bên lề xã hội, hoặc phải chết thôi! 

Nhớ lại sau năm 1975, có vài nhân vật “gốc ngụy” được CS tái sử dụng trong một ít lãnh vực chuyên môn, như ngành y tế, giáo dục và ngành khoa học kỹ thuật. Nhưng việc lưu dụng ấy chỉ mang tính giai đoạn tạm thời khi mà “người rừng về phố” còn cần đến! Được việc rồi, khi người rừng đã biết mặc chiếc áo thị thành thì lập tức họ giở quẻ chơi trò tráo trở lưu manh, thay trắng đổi đen, đạp người tài xuống tận đáy cùng của xã hội sau khi vắt cạn kiệt ngón nghề của người tài! Gán cho họ một cái tội “phản động” vu vơ nào đó rồi tống vào tù! Thầy giáo tháo giầy! Kẻ sĩ vào chuồng khỉ! 

Với CS,ngụy là ngụy! Mà ngụy thì chỉ cóloại trừ và đày đọa! CIA cài lại cả đấy! Trừ một ít viên chức VNCH cấp thấp trong ngành giáo dục và y tế tuy được chế độ mới tái sử dụng, nhưng luôn bị canh chừng và nhiều khi bị đặt vào những vị trí lệch với khả năng chuyên môn của mình. Khốn nạn nhất là, khi các viên chức ấy đến tuổi hưu,“thâm niên công vụ”của họ chỉ được xem xét để cho hưởng chế độ hưu bổng kể từ sau 30/4/1975; còn thời gian phục vụ trước đó thì đều làcông dã tràng, bị xóa hoàn toàn, dù trong thực tế dưới chế độ cũ lẫn chế độ mới, họ cũng đều miệt mài trong lãnh vực giáo dục tuổi thơ, mầm non của Tố quốc và phục vụ bệnh nhân!

Thế nên, nơi thiên đường CS, chuyện trọng dụng nhân tài, chuyện chiêu hiền đãi sĩ là chuyện không tưởng! Ai cho phép chiêu hiền đãi sĩ để bọn hiền sĩ chiếm lĩnh quyền đảng? Đảng ta ưu việt! Đỉnh cao trí tuệ! Cho nên tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư, phó giáo sư đều phải từ đảng mà ra! Đảng độc quyền trong mọi lãnh vực! Nhưng trên thực tế, mấy ông “sĩ” bà “sư” trong đảng lại nhờ đến đô-la Mỹ mới có được mấy mảnh bằng trương lên lòe chức sư, chức sĩ, để được tăng lương và thăng chức! Toàn bằng mua, bằng giả, hoặc bằng thật học giả! Khiến cho bầy trẻ nít dung dăng dung dẻ bài đồng daoDốtnhư chuyên tu,ngunhư tại chức”. Vậy mà người ta vẫn vênh vênh tự đắc… đại trí thức, trưng bằng, trưng chức, trưng học vị ào ào!“Trí thức – cục phân”, có lẽ lời của Mao Trạch Đông áp dụng đúng nhất cho loại trí thức“ngu”“dốt”này!

Kỳ thị là căn tính và là sự sống còn của đảng CSVN.

Sau 30/4/1975, cả triệu công chức, cán bộ, quân nhân VNCH bị tống vào các trại tù gọi là “trại cải tạo” sau khi bị đóng khắc tự “ngụy”, bị ép lao động khổ sai quần quật năm này sang năm khác chẳng hề được xét xử. Không bản án, nhưng không biết ngày nào, tháng nào, năm nào ra khỏi nhà tù! 

Đảng hô hào “cải tạo tốt, về sớm”! Nhưng đố ai biết được như thế nào là tốt, tốt tới đâu, lúc nào thì được nhìn nhận là đã “cải tạo tốt”? Năm năm, sáu năm, bảy năm, mười năm, mười lăm năm, hai mươi năm, ba mươi năm,“quyền họa phúcđảngtranh mất cả”. (nhại Kiều)! Vợ con ở ngoài xã hội thì luôn bị khủng bố dọa dẫm:“Các người ở ngoài mà lộn xộn không chấp hành tốt, thì chồng con các người đừng hòng được tha về”.Khốn nạn chưa cái án ngụy? Ngụy trong nhà tù, ngụy ngoài nhà tù đều điêu đứng!

Nhiều nạn nhân “cải tạo” ngã chết tức tưởi trong trại tù: Chết vì thiếu ăn, bị bỏ đói? Chết vì ngộ độc? Chết vì đau bệnh không được chữa trị? Chết vì bị hành hạ, đánh đập, bức tử? Mặc kệ! Ngụy chết, hết chuyện! Một manh chiếu rách, mấy tấm gỗ cưa xẻ thô, sai tù hình sự mang xác vùi chôn giữa rừng già, không để lộ dấu vết! Một tờ khai tử“chết vì sốt ác tính”!Thế là xong! 

Những người may mắn sống sót trở về, kẻ thì thân tàn ma dại, bệnh hoạn tật nguyền, kẻ khác mắc chứng tâm thần, xóm làng dè bỉu… Khốn nạn nhất là ở tù về, người cựu tù lại cứ mãi mang cái khắc tự “ngụy” không gỡ ra được, không xóa được! Tù quản chế!

Thương phế binh “ngụy”

Tội nghiệp nhất là các anh em Thương Phế Binh VNCH. Các anh bị “chung thân ngoài đời” do sự tật nguyền của mình. Vì thương tật, các anh không sinh lãi mà có thể báo cô cái chế độ toàn trị là CSVN, các anh TPB/VNH không bị lôi vào nhà tù cùng với đồng đội, nên các anh không được coi là cựu tù nhân chính trị. Các anh không đi tị nạn chính trị. Nhưng tội nghiệp thay! Ở lại Việt Nam, các anh vẫn là “ngụy”, những“tên ngụy”nguy hiểm cho chế độ CS. Các anh đối diện với sự ngược đãi, sống lay lất trên đất nước giữa những người đang phân biệt đối xử nhân danh ý thức hệ, coi khinh, giày xéo các anh, dù thân thể của các anh chẳng còn gì khác ngoài những mảnh hình hài dị dạng lê lết thảm thương trên những nẻo đường vắng thôn quê hay phố phường. Tên các anh bị liệt vào sổ bìa đen; và dĩ nhiên“lý lịch đen”của các anh là:phần tử phản động cần theo dõi!

Bạn bè từ hải ngoại nhớ thương bạn đồng đội xấu số, gửi về chút quà! Quà bị đoạt sạch! Các anh bị hạch sách, gây khó dễ! Những xe lăn, gậy chống, chút ít đô la ăn sáng đều bị lên án có“yếu tố nước ngoài”, có“bàn tay lông lá CIA”, hoặc do“bọn ngụy quân, ngụy quyền cực kỳ phản động”chuyển về, nuôi hận thù, kích động âm mưu lật đổ! Tấm thân tàn các anh còn gì nữa để mà tiếp tay cho ai đến nỗi bị đối xử tàn nhẫn đến như vậy? 

Truyền thống đạo lý của dân tộc ta nay hết rồi cái lý tưởng của một dân tộc“đạo nghĩa”,“chí nhân”, hay“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”!(Bình Ngô đại cáo). Rõ ràng CSVN không hề thuộc về dân tộc Việt Nam mà chỉ là bầy tôi của cái đảng cướp mang danh quốc tế vô sản chuyên gây ác mà nhân loại đã đào thải từ hơn 20 năm nay! 

Kinh Tế Mới, nơi nhốt gia đình“ngụy”!

Chồng làm, vợ chịu, con mang! Đó là lý lẽ và luật lệ của Cộng sản. Cứ theo cái lý và cái luật ấy mà trừng trị: Lùa gia đình “ngụy” vào các nơi khỉ ho cò gáy được gọi là Vùng Kinh Tế Mới (KTM), cô lập khỏi cộng đồng xã hội trong nước. KTM lập ra không hề có mục đích phục vụ kinh tế-xã hội như Khu Trù mật, Khu Dinh điền của thời đệ nhất Cộng hòa hay những Ấp Tân sinh thời đệ nhị Cộng hòa! Vùng KTM của CSVN là nhà tù kiểu mới, nơi đày ải, cô lập gia đình “ngụy” cùng một số “đối tượng” thù địch của chế độ! Tù nhân không án chôn vùi đời mình ở đó, mãn đời mãn kiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác, theo kế hoạch đảng đã vạch. 

Đằng sau sách lược đày ải này, CSVN còn bộc lộ lòng tham vô độ hết sức bẩn thỉu: Lợi dụng khai mở vùng KTM mới, CSVN còn nhằm mục đích tư lợi, tư túi, phá rừng, đoạt gỗ, nhất là các loại danh mộc, bất chấp hậu quả của việc xâm hại môi trường, gây bão lụt thiệt hại mùa màng và đời sống người dân. Lùa đẩy người dân thành thị về nông thôn hay đi KTM đều là mánh khóe bọn quan chức CS bày ra để đoạt nhà, cướp đất, vơ vét tài sản của “ngụy” và của “tư sản” trong thành phố một cách ngang nhiên vô liêm sỉ. Hoảng hốt trước sự đối xử tàn bạo của nhà cầm quyền CS, người dân tìm cách thoát thân. Nhà cầm quyền CS âm mưu lợi dụng những cuộc trốn thoát ra khỏi nước bằng đường vượt biên vượt biển để tiếp tục đoạt vàng, cướp của và chiếm hữu nhà cửa, đất đai của những người trốn chạy ấy. Người rừng phút chốc bỗng trở nên giàu to, chẳng phải mất một giọt mồ hôi, nước mắt!

Ngoài những người đã trốn thoát thành công bằng đường vượt biên, nếu từ Liên Xô, Gorbachov không thổi lên luồng gió đổi mới và mở cửa vào cuối thập niên 1980, chẳng biết đến bao giờ các gia đình “ngụy” mới thoát khỏi cạnh ngục tù mang tên Kinh Tế Mới ấy, và số phận họ chẳng biết sẽ bị đẩy vào đâu. Tuy nhiên, thoát khỏi nhà tù KTM, các bà mẹ, người vợ và con cái “nhà ngụy” chưa hẳn đã được yên. Nhà cửa, đất đai của họ trong thành phố trước đây nay đã thuộc về chủ mới! Quyền cư trú của họ cũng đã bị tước đoạt. Họ đành thất tha thất thểu chui nhủi nơi các khu lầy lội tối tăm trong thành phố hay lẫn trốn quanh các công viên, vỉa hè… “ăn lậu ở lậu”, đi nhặt từ mảnh giấy vụn và ve chai để đổi lấy miếng cơm manh áo sống lay lất qua ngày. Muốn có sổ hộ khẩu, phải chạy chọt lâu dài và mua bằng vàng! Trong khi cái bản án “ngụy” thì cứ bám chặt vào thân phận bọt bèo của những người đã bị xô ngã, nhận chìm! 

40 năm chưa hết hằn học sỉ vả “ngụy”.

Có người phản bác rằng, đã 40 năm rồi, làm gì còn có chuyện phân biệt “ngụy” hay không “ngụy”? Xin dẫn ra 2 bằng chứng mới nhất ở đầu năm 2015 này. Đó là 2 bài báo, một trên tờ Quân Đội Nhân Dân, và một trên báo Đời Sống & Pháp Luật dưới đây. 

Bài 1 (báo QĐND ngày02/01/2015) của tác giả Hương Ngọc“Nhà tình báo kể chuyện... gặp may”ghi lại lời tường thuật của chính“Đại tá, Anh hùng Tình báo Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) ở Sài Gòn”. Một bài báo ngắn mà từ“ngụy”trải dài từ đầu tới cuối:ngụy, lính ngụy, tên ngụy, tên sĩ quan ngụy, bên ngụy, quân ngụy, thằng sĩ quan(ngụy).

Bài 2 (báo Đời Sống & Pháp Luật ngày22/02/2015) của tác giả Chí Công:“Đại tá tình báo và cuộc chiến cân não với ‘toà án Ngụy quyền’ Tết 1972”có những câu chữ nhưNgụy,Ngụy quyền, Bọn an ninhNgụy quyền, Vùng I chiến thuật Ngụy, thành phố Sài Gòn (sào huyệt của Mỹ -Ngụy)”vân vân. Tất cả từNgụyở đây đều viết N (chữ hoa)! Không hiểu ông đại tá tình báo hay tác giả bài viết có ý đồ gì cho từ Ngụy (ngụy viết N hoa) ở đây? 

“Tên riêng” của một nhóm người đó chăng? Hay là ngầm ý bày tỏ sự trân trọng như từNhân dân(với N viết hoa) trong bản Hiến pháp 2013 mà các báo luồng đảng đều tung hô là“lầu đầu tiên, từ Nhân dân (N viết hoa) được Hiến pháp ta trân trọng”.Nhưng, đọc hết bài báo, mới hay từ “Ngụy” (N viết hoa) chỉ dùng cốt để thóa mạ, hạ nhục, dìm “ngụy” xuống tận đáy cùng xã hội, phe thắng cuộc vẫn chưa hả dạ!

Rõ ràng, lời hô hào“hòa hợp hòa giải”từ trước đến giờ của tập đoàn CSVN chỉ là những lời lừa phỉnh dối trá để che mắt thiên hạ chứ không hề là một thiện chí, một“thái độ biết điều của kẻ ở thế thượng phong”. Đã đánh ai là đánh cho chết; mới hả hê với lời thề“phanh thây, uống máu”. Một tay giơ caobúađập vào đầu “ngụy”, tay kia dùngliềmcắt cổ vợ con “ngụy”! Búa vẫn lơ lửng trên đầu,liềmmãi kề sát cổ đối phương! Suốt 40 năm cứ thế! Có là bậc thánh tu rừng thời thượng cổ tự bịt tai bịt mắt mới không hận, không căm bọn quỷ khát máu. 

Búa và liềm không phải chỉ nhắm vào “ngụy” mà còn là vũ khí hiểm độc đánh vào toàn dân Việt Nam. Mỗi khi có dịp, cụ thể mỗi năm, khi gần tới ngày 30/4, truyền thông CS luôn moi ra cho được một vài hình ảnh xấu xa xưa nào đó của vài cá nhân để làm bằng chứng kể lể “tội ác của Mỹ-ngụy”! Nhưng tập đoàn CSVN lại cố tình làm ngơ trước bao hình ảnh chứng minh cụ thể người dân Việt Nam sợ hãi, trốn chạy CS và quyết cùng sống chết với những người mà phe CS bôi xấu! Sợ loài ác quỉ hiện hình thành bầy ác thú ăn thịt người! Mỗi lần ác thú xuất hiện ở đâu, dù núp dưới chiêu bài“giải phóng dân tộc”gì gì đi nữa, nhân dân cũng đều khiếp hãi tháo chạy trối chết! Cuộc di cư 1954 từ Miền Bắc, Mùa hè Đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị, biến cố 1975… là những chứng tích sống động! Người dân không tháo chạy vì “bị VNCH tuyên truyền” như CS xuyên tạc, mà là phản ứng tự nhiên từ kinh nghiệm bản thân của mỗi người về những hành động gian ác của CS đối với mọi tầng lớp dân chúng trong vô vàn trường hợp trước đây. 

Hàng triệu người“được cách mạng giải phóng”, sướng quá đi chứ! Sao dân không ở lại với CS, không chạy theo CS để sống cõi“thiên đàng CS”?Trái lại, ai nấy đều ùn ùn chạy theo “Mỹ-ngụy” bất chấp CS truy đuổi, bắn giết bằng đại pháo, bằng súng liên thanh, súng trường và lựu đạn cá nhân? VNCH tuyên truyền đó ư? Hãy xem kìa: Người dân Đông Đức xô ngã bức tường Bá Linh có phải do Tây Đức tuyên truyền không? Dân Đông Âu và cả Nga cùng các nước chư hầu Liên Xô cùng vùng lên quật ngã thần tượng Lê Nin và cái sản phẩm Cộng sản chủ nghĩa thối tha kia là do đâu? 

Sau 30/4/1975, Miền Bắc từng được ơn mưa mốc của Đảng hơn 20 năm ròng, thế sao dân Miền Bắc (người của xhcn đấy) lại theo chân dân “ngụy” Miền Nam trốn chạy, ào ào vượt biên, vượt biển tìm tới những thứ “nước tư bản đang giãy chết”? Hoặc ùn ùn “di cư” vào Nam hít thở chút bầu khí thị trường tự do đang còn le lói chút ánh sáng trước khi bị CS tìm cách thủ tiêu!

Chế độ xhcn ưu việt lắm! Thế sao đến bây giờ vẫn chưa dứt những cuộc tháo chạy hối hả kinh hoàng? Tháo chạy qua đường dây xuất khẩu lao động! Tháo chạy trong thân phận cô dâu Đài Loan, Đại Hàn và cả Trung Cộng…, nhục nhã ê chề! Tháo chạy trong nỗi nhục nô lệ tình dục qua buôn bán phụ nữ, trẻ em! Tháo chạy bằng núp bóng hôn nhân ghép, giả. Tháo chạy bằng đường du học Mỹ, Nhật, Úc, Pháp, Đức, Canada…học xong không về! Và cả tháo chạy bằng tổ chức vượt biên lậu sang Pháp, sang Úc, sang Anh, sang Mỹ những năm gần đây, mỗi đầu người “đi lậu” mất hàng chục ngàn đô la Mỹ, bất kể bao tai họa chờ đợi họ! Nghĩa là thà chọn “ngụy” hơn là sống với quỷ!

Thế lực thù địch.

Khi từ “ngụy” trở thành “gậy ông đập lưng ông” đối với CSVN, nhà cầm quyền chế độ CS chuyển sang độc chiêu khác, thâm độc không kém. Mỗi khi có dấu hiệu tình hình bất lợi cho chế độ là mỗi lần CSVN gán tội cho một thế lực vô hình có tên gọi là“thế lực thù địch”. Và bất cứ người nào “khả nghi” cũng đều là thế lực thù địch. Thế lực thù địch không chỉ ám chỉ “ngụy quân, ngụy quyền” chế độ cũ, mà còn với cả những ai không a dua, đồng tình với Đảng CSVN về một khía cạnh nào đó.

Dân oan đòi hỏi giải quyết nỗi oan chồng chất của mình:thế lực thù địch! 

Dân phản đối chặt cây thành phố Hà Nội cũng bị vu làthế lực thù địch!Chính Phạm Quang Nghị, Bí Thư TP Hà Nội phát ngôn chắc nịch:“Nhân danh bảo vệ cây xanh nhưng thực ra làchống chế độ, chống lại chính quyền các cấp. Tôi nói đây là cáikích động từ bên ngoàichứ không nhầm lẫn với cái bức xúc của người dân phê bình chúng ta chính đáng.”(Người Buôn Gió - Bản lĩnh lãnh đạo của Phạm Quang Nghị qua vụ chặt cây xanh, 31/3/2015. Re.http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/229612/vu-cay-xanh--khong-xu-oan-sai-cung-khong-ne-tranh.html).

Trung Cộng xâm lăng biển đảo VN, dân uất ức biểu tình phản kháng quân xâm lược:thế lực thù địch. Thế lực bá quyền xâm lược nước ta không làthế lực thù địch, mà nhân dân bày tỏ lòng yêu nước lại bị gán làthế lực thù địch, là làm sao? 

Dân phản đối những hành vi bức hiếp của chính nhà cầm quyền hay bọn tay sai nhà cầm quyền:thế lực thù địch. 

Dân tổ chức vinh danh những chiến sĩ vị quốc vong thân ở Hoàng Sa và Trường Sa cũng bị quy kết làthế lực thù địch. Trong khi bọn thảo khấu côn đồ được chính các cơ quan đảng-nhà nước CSVN sử dụng làm công cụ mang tên “dư luận viên” đánh phá dã man những cuộc tưởng niệm yêu nước thì lại được tuyên dương, cổ võ! 

Cả những cuộc biểu tình đấu tranh cho nhân quyền và dân quyền cho Việt Nam hay cho quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng cũng là “phản động”, là “thế lực thù địch”.

Biểu tình vì “Hoàng Sa-Việt Nam, Trường Sa-Việt Nam” cũng bị ghép là“thế lực thù địch”.Đàn áp bằng lực lượng chính quy (Công An) chưa đủ, nhà cầm quyền sử dụng tới cả côn đồ đàn áp thô bạo! 

Kiêu đảng, loạn quan… bán nước.

Làm sao không căm hận khi trước mắt mình vẫn tái hiện cái cảnh kiêu binh trấn áp dân lành. Suốt 40 năm thống trị, CSVN không ngừng tổ chức ăn chặn, cướp giật tổ chức có hệ thống quy mô từ trên xuống, từ dưới lên. Họ vỗ ngực khoe khoang thành quả phục vụ công ích xã hội với những công trình cầu cống, đường sá, dinh thự “hoành tráng”! Nhưng đều là từ vốn ODA! Vốn viện trợ hay vay mượn từ các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật! Dùng vốn ấy cho công trình công ích chỉ một phần, rút ruột chia chác nhau đến hai ba phần! Cho nên rút cuộc, công trình nào cũng vỡ, cũng đổ ngay sau khi khánh thành, chưa kịp đưa vào sử dụng. (Những PMU 18, Xa lộ Đông Tây, Dự án Đường Sắt, Đường Cao tốc, Đập Thủy Lợi… là bằng chứng). 

Rồi đến những“công ty quốc doanh”núp dưới cái vỏ bọc“kinh tế thị trường định hướng xhcn”để cướp giật, chia nhau trắng trợn hàng tỉ tỉ bạc. Chỉ mới lòi ra 2 đại công ty quốc doanh Vinashin và Vinalines trong hàng chục, hàng trăm công ty đội lốt quốc doanh chuyên rút ruột, ăn cướp, ăn giật mà đã lộ ra hàng triệu, thậm chí hàng tỉ đô-la thâm lạm. Hệ lụy của“kinh tế thị trường định hướng xhcn”đấy! Thế mà, kẻ nào dám bảothị trường định hướng xhcnlà quái thai, kẻ ấy bị quy kết ngay là“thế lực thù địch”. 

Cái đuôi định hướng xhcn 

Thử đọc bài báo nhan đề“Chỗ cần nhà nước thì không thấy đâu”trên tờ VietNamNet để xem người ta nói gì về cái gọi là“kinh tế thị trường định hướng xhcn”? 

Đây lời giáo đầu bài báo trên:“Các chuyên gia kinh tế hàng đầu VN thừa nhận thực tế suốt gần 30 năm đổi mới, đã có nhiều cuộc thảo luận, nghiên cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưngcâu trả lời vẫn chưa rõ ràng”.

Trong phần 1 bài giới thiệu“cuộc phỏng vấn bàn tròn vớiTS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch Đầu tư vàTS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN”,VietNamNet nêu ra lời nhận định xót xa của TS Trần Đình Thiên như sau:

“Trước kia, chúng ta mới chỉ hiểu về kinh tế thị trường, còn thực tiễn nó vận hành như thế nào thì còn khá mơ hồ. Tất nhiên, thực tiễn cũng có. Ví dụ như sau giải phóng,kinh tế thị trường vốn rất phát triển từ phía nam đã âm thầm lan dần ra bắc theo mạch vận động ngầm của người dân trong bối cảnh cấm đoán, ‘ngăn sông cấm chợ’. Nhưng ngược lại, lúc đó cũng cómột luồng quan điểm về CNXH đóng đinh về mặt nguyên lý trong nhận thứcchúng ta là gắn với kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể mà về bản chất là công hữu. Luồng tư duy này tràn vào nam theo con đường quốc doanh hóa. 

Hai làn sóng ngược chiều này trên thực tế đã xung đột nhau dữ dội và càng chứng tỏ cho chúng ta thấyCNXH và kinh tế thị trường không thể tương dung được, đến mức chúng ta phải đổi mới. Luận đề đổi mới làchấp nhận kinh tế thị trường.” 

Lời nhận định trên đây cho thấy cái đuôi“định hướng xhcn”lòng thòng lừa bịp vô nghĩa nay không còn lý do gì tồn tại được nữa!

Kết: Thà Vẫn Ngụy như Ngụy Văn Thà!

Chúng tôi kết thúc bài viết với lòng bùi ngùi nhớ thương người anh em chiến sĩ anh dũng của VNCHNgụy Văn Thà, Thà Vẫn Ngụy, cùng với 73 chiến sĩ đồng đội liều hy sinh vì Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu hơn là sống ô nhục liếm gót giặc phương bắc như bọn CSVN tham tàn!

Tin chắc hết thảy quân-dân-cán-chính VNCH cùng một lòngThà Vẫn NgụynhưNgụy Văn Thàchứ không chịu khuất phục tà quyền Cộng sản hèn với giặc ác với dân, đang tâm bán nước cho Hán tặc.(3)

Thiết tưởng cũng cần nói rõ rằng, qua chứng cứ lịch sử, không hề có bút tích văn tự nào cho thấy có bất cứ mộtquân-dân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòagiao nộp cho bất kỳ thế lực ngoại lai nào một rẻo đất nhỏ từ nội địa cho tới hải đảo xa xôi của quốc gia. Trái lại, ai nấy cùng một lòng hy sinh xương máu bảo vệ từng tấc đất bờ cõi non sông Tổ Quốc trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố của lịch sử. Trong khi giấy trắng mực đen từ văn kiện chính thức cấp nhà nước (Công hàm 1958, rồiHiệp định Biên giới 1990) đến sách giáo khoa (bản đồ sách Địa lý) và truyền thông (báo nhân Dân1956 & 1958)… là bằng chứng mạnh mẽ xác quyết CSVN công khai nộp đảo, dâng đất thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam cho Tàu Cộng. 

Người quốc gia VNCH không bao giờ là “ngụy” đối với Tổ quốc mình dù bọn Cộng sản cố tình gán cho cái từ NGỤY sỉ vả nham nhở hạ cấp đầy khiêu khích, hòng che đậy bản chất tà quyền của họ, một chế độ CS vô Tổ quốc buôn dân bán nước trắng trợn mà nhân dân cả nước đang vạch trần!

(Tháng Tư 2015) 


Hãy để 30/4 như một ngày bình thường



VN xử lại vụ công an đánh chết người

Bản án sơ thẩm hồi năm ngoái đối với các 5 sỹ quan công an đã khiến dư luận phẫn nộ vì bị cho là quá nhẹ

Tòa án tỉnh Phú Yên bắt đầu xét xử sơ thẩm lần hai vụ năm công an dùng nhục hình gây chết người.

Trong khi đó, luật sư bảo vệ cho bên bị hại nói ông hy vọng phiên tòa lần này sẽ đưa ra bản án 'nghiêm minh hơn'.

Năm bị cáo trình diện trước tòa sáng 7/4, trong đó có bốn cựu công an TP Tuy Hòa và một cựu lãnh đạo trinh sát tỉnh Phú Yên, bị truy tố về tội 'Dùng nhục hình', theo các báo trong nước,

Ông Lê Đức Hoàn, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra công an TP Tuy Hòa, người từng xuất hiện trong những lần xét xử trước với tư cách nhân chứng, cũng bị truy tố về tội 'Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng' trong phiên tòa lần này.

Báo Thanh Niên dẫn cáo trạng được đọc tại tòa cho biết ngày 13/5 năm 2012, năm bị cáo Nguyễn Thân Thảo Thành, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy, Nguyễn Minh Quyền đã bắt giữ ông Ngô Thanh Kiều vì nghi ngờ trộm cắp.

"Do bức xúc trước thái độ khai báo của Kiều, các bị cáo đã có hành vi khóa tay, dùng gậy cao su đánh, không cho Kiều ăn dẫn đến hậu quả Ngô Thanh Kiều tử vong", cáo trạng cho biết.

"Hành vi của các bị cáo trên đủ yếu tố cấu thành tội 'Dùng nhục hình', Điều 298 Bộ luật hình sự."

Phiên tòa sơ thẩm hồi năm ngoái đã gây phẫn nộ cho dư luận trong nước sau khi đưa ra mức án chỉ từ 1 năm án treo đến 5 năm tù cho các bị cáo.

Kết quả phiên xét xử này đã bị tòa phúc thẩm hủy bỏ sau đó.

'Nghiêm minh hơn'

Trả lời BBC ngày 7/3, Luật sư Võ An Đôn, người bảo vệ cho bên bị hại, nói ông hy vọng rằng phiên tòa lần này sẽ "nghiêm minh hơn lần trước".

"Các phiên tòa trước đó đã bỏ sót nhiều tội danh và các bản án được đưa ra cũng không thỏa đáng", ông nói.

"Thi thể nạn nhân có tổng cộng 72 vết thương, 12 vết trên đầu, nội tạng bị đánh dập hết."

"Trong khi đó, các bị cáo chỉ nhận đánh mỗi người có 2 đến 3 cái, còn vết thương trên đầu thì không ai nhận".

"Cần phải có người bị quy trách nhiệm cho những vết thương này".

Đến dự phiên tòa sáng 7/4 có vợ, con, các chị và cha mẹ của nạn nhân, ông Đôn cho biết.

Cũng theo ông, các bị cáo xuất hiện tại phiên tòa lần này với khuôn mặt 'nghiêm trang, sợ sệt hơn trước".

Phiên tòa sơ thẩm lần này dự kiến sẽ kéo dài từ 3 đến 5 ngày, ông nói thêm.

'Quyết tâm hơn nhờ dư luận'

Hồi tháng 12 năm ngoái, truyền thông trong nước dẫn thông tin từ Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư Phú Yên cho biết công an, Viện Kiểm sát và Tòa án Nhân dân TP Tuy Hòa đã gửi kiến nghị "xử lý vi phạm" của Luật sư Đôn trong quá trình tranh tụng bảo vệ bên bị hại trong vụ án.

Văn bản cáo buộc ông Đôn "có lời lẽ thiếu văn hóa, xúc phạm đến người tham gia tố tụng vụ án và nhiều đồng chí đương nhiệm" và "tạo thành điểm nóng không tốt trong dư luận xã hội".

Luật sư Đôn xác nhận với BBC đã bị gây áp lực sau phiên phúc thẩm hồi năm ngoái.

Tuy nhiên ông cũng cho biết sự ủng hộ từ dư luận đã khiến ông "quyết tâm" hơn.

"Sau phiên phúc thẩm lần trước, phía công an và viện kiểm sát tỉnh đã muốn tịch thu chứng chỉ hành nghề của tôi," ông nói.

"Nhưng sau khi bị dư luận gây sức ép, họ đã không dám làm gì nữa."

"Sự ủng hộ từ công chúng đã giúp tôi mạnh mẽ và quyết tâm nhiều hơn để đấu tranh cho công lý."


'Không nên gọi 30/4 là ngày giải phóng'

Tôi sinh ra và lớn lên sau ngày 30/04. Trong khi phần lớn đất nước chìm trong khó khăn, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, trong khi phần lớn người dân thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ trong giai đoạn 1980-1990, thì tôi đã sống một cuộc sống đầy đủ và sung túc, vì ông bà tôi là những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông tôi là một người chân thành và có niềm tin sâu sắc với lý tưởng cộng sản. Ông có một người chị ở phía bên kia, và sau này di tản sang Mỹ. Ông không bao giờ liên lạc với bà, và đó là nỗi ân hận lớn nhất trong những ngày cuối đời của ông.

Là một 'hạt giống đỏ" tôi lớn lên với niềm tin chân thành về những gì được dạy dỗ, về lý tưởng cộng sản với hình mẫu Pavel Korchagin - Hình mẫu chuẩn mực cho mọi thiếu niên lớn lên dưới mái trường XHCN khi đó.

Vì vậy, sự kiện 30/04 đối với tôi và các bạn tôi khi đó là một cái gì đó rất đẹp, rất anh hùng, cũng rất vẻ vang. Với thế hệ chúng tôi, Việt Nam đã đánh bại siêu cường số 1 thế giới làm "chấn động năm châu. rung chuyển địa cầu".

Nhưng sau sự kiện bức tường Berlin, mẹ tôi trở về Việt Nam (vì là con của cán bộ cao cấp, mẹ tôi và các bác, cậu của tôi đều lần lượt học ở Đông Đức, Liên Xô, Bungari...).

Với những gì đã được chứng kiến ở nước Đức và Đông Âu, mẹ tôi không tán đồng quan điểm với ông tôi. Mẹ tôi từng kể với tôi rằng, những người bạn Đức của bà nói rằng ''Mỹ là những người bạn tốt, cả thế giới muốn chơi với nó mà người Việt Nam mày lại đuổi nó đi.''

Bà kể cho tôi về những người Đức cộng sản và không cộng sản khi thống nhất đất nước đã ôm hôn nhau như thế nào. Bà kể về những người lính biên phòng Đông Đức đã tự sát chứ nhất định không bắn vào những người phía Đông muốn chạy sang phái Tây như thế nào.

Đó là bước ngoặt trong suy nghĩ của tôi! Mỹ mà tốt à? Tại sao người ở phía Đông lại chạy sang phía Tây chứ không phải ngược lại? Thế giới của tôi bắt đầu có nhiều màu sắc hơn, không còn chỉ có hai màu, cộng sản và phản động nữa.

Những ngày tháng cuối cùng của chiến tranh chỉ là giao tranh giữa những người Việt (Trong ảnh là lính VNCH trong trận Xuân Lộc)

Tôi bắt đầu tìm đọc những tác phẩm viết về ngày 30/04/1975. Đọc những tác phẩm bị coi là "phản động" ở Việt Nam. Các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Độ, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Gia Kiểng...

Thông tin từ những tác phẩm này đã khiến tôi mở to mắt. Ngày 30/04 làm gì còn người lĩnh Mỹ nào ở Sài Gòn. Vậy sao còn gọi là kháng chiến chống Mỹ? Sao có thể gọi là "giải phóng"?

Và tôi khóc thương cho số phận dân tộc Việt. Khóc thương cho hàng triệu người Việt ở cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến "huynh đệ tương tàn". Khóc thương cho cả triệu người Việt vĩnh viễn nằm lại gữa biển khơi.

Và tôi khóc thương cho lòng yêu nước nhiệt tình nhưng ngây thơ của người Việt đã bị các cường quốc lợi dụng. Đất nước trở thành bãi chiến trường. Người Việt trở thành sỹ tốt xung phong. Việt Nam thành bàn cờ, nhưng người chơi là người Nga, người Trung Quốc và người Mỹ không phải là người Việt. Một bên chiến đấu để "giải phóng" và "nhuộm đỏ thế giới". Một bên chiến đấu để bảo vệ "thế giới tự do".

"Đại thắng mùa xuân" và "giải phóng miền Nam". Đât nước thành một đống đổ nát, hoang tàn. Trường Sơn thành một nghĩa trang khổng lồ.

Những người mẹ mất con. Khăn trắng trên đầu trẻ thơ. Và một hết thương hằn sâu trong lòng dân tộc. 40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa...bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước..vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Một tượng đài nhỏ thôi, giản dị thôi nhưng tinh xảo. Và một nghĩa trang của những người lính ở cả hai phía cho thế hệ trẻ có thể tỏ lòng thành kính cho những người đã ngã xuống vì dân tộc. Hy vọng là như thế!

Còn thống nhất lãnh thổ mà không thống nhất được lòng người thì có ích gì? Nhất là khi phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp đang trỗi dậy. Bài học mất nước của Hồ Quý Ly còn đó.


Video Biểu tình dân miền Nam thức tỉnh đả đảo cọng sản VN


                                              Click :



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford!
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh!
Tưởng niệm tháng tư 75
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi
Tỷ lệ dân số độc thân Việt Nam và Đông Nam Á
Đất nước tiến lên đỉnh cao Mại Dâm chủ nghĩa, hoa hậu, hoa khôi giá cao, hoa hậu thế giới VN cao nhất 200 triệu đồng/phát
Nỗi nhục dân tộc do những công dân gương mẫu CSBV tức CHXHCNVN

     Đọc nhiều nhất 
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi [Đã đọc: 791 lần]
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin [Đã đọc: 422 lần]
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến [Đã đọc: 360 lần]
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế [Đã đọc: 329 lần]
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt [Đã đọc: 292 lần]
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học [Đã đọc: 284 lần]
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ [Đã đọc: 247 lần]
Tưởng niệm tháng tư 75 [Đã đọc: 241 lần]
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975 [Đã đọc: 208 lần]
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng [Đã đọc: 207 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.