Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 2
 Lượt truy cập: 24840841

 
Khoa học kỹ thuật 19.04.2024 05:06
Vai Trò CS-Trung Quốc trong Chiến Tranh Việt Nam, 1954-1963
20.07.2014 16:35

Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng giúp đỡ Hồ Chí Minh thành công trong mặt trận chống Thực Dân Pháp cũng như ký hiệp định Geneva chia đôi VN 1954.

Lịch Sử Việt Nam - Cuộc Xâm Chiếm Miền Nam của Cộng Sản VN - Ngọc Đan Thanh

 

















Trong những thập niên sau cuộc họp mặt Geneva, Bắc Kinh vẫn tiếp tục bành trướng ảnh hưởng trong những sự thay đổi của Việt Nam. Trong quá trình của cuộc họp mặt Geneva, CSVN không ngừng bám theo cũng như “xin” CS-Trung Quốc giúp đỡ và tiếp viện để củng cố quyền lực Đảng CSVN tại miền Bắc, thành lập cũng như huấn luyện quân đội CSVN, thi hành dự án Cải Cách Ruộng Đất, tu chính lại Đảng CSVN, củng cố bộ chính trị Bắc Việt, quản lý thành phố lớn và tái tạo nền kinh tế. Và như đã biết, Bắc Kinh đã cho Fang Yi lãnh đạo một đoàn Trung Quốc Kinh Tế Gia đến miền Bắc Việt Nam.
Theo tài liệu Quân Sử của Bộ Trung Hoa Quân Mưu (Chinese Military Advisory Group-CMAG), ngày 27 tháng 6, 1955, Võ Nguyên Giáp người nắm binh quyền Bắc Việt đã âm thầm đến Bắc Kinh trong vai trò đại biểu CSVN với sự giúp đỡ của người cầm đầu CMAG ở Việt Nam là Wei Guoqing. Võ Nguyên Giáp bàn thảo với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Minister Peng Dehuai, và tướng Petroshevskii, một Quân Mưu cao cấp của Liên Xô tại Trung Quốc, về dự án tái tạo quân đội của Đảng CSVN và những dự án chiến tranh trong tương lai. Đại Biểu CSVN ghé thăm Trung Hoa Hạm Đội Bắc Hải trước khi trở về Hà Nội vào giữa tháng 7. Trong quá trình đól, ngày 15 tháng 10, 1955, Võ Nguyên Giáp lại âm thầm dẫn đầu một phái đoàn đại diện sang Trung Quốc, và đã bàn với Peng Dehuai và Tướng Quân Liên Xô Gushev kỳ này cũng là về những dự án củng cố quân sự và quân đội của CSVN cũng như chiến lược tương lai. Đoàn đại biểu CSVN đã tham quan những Trung Tâm Quân Sự Trung Hoa, quân trường và nhìn Quân Đội Trung Hoa học tập trước khi trở về Bắc VN vào ngày 11 tháng 12.
Tài Liệu Quân Sử của CMAG, ghi rõ rằng trong suốt 2 quá trình sang Bắc Kinh của Giáp, Giáp đã báo cáo “thành công ký kết” với CSTQ và Liên Xô “trên những điều chính.” Nhưng lại không giải thích tại sao Giáp lại mau lẹ ghé thăm lần thứ 2 đến Bắc Kinh sau không xa chuyến âm thầm thứ nhất, và tại sao sự hiện diện phía Liên Xô lại khác với lần đầu. Có lẻ sư bàn thảo lần thứ nhất của Giáp, đã bỏ lại sau lưng vài vấn đề chưa giải quyết. Sự thật thì, theo tài liệu tham khảo của Quảng Đông Đại Học Xã Hội Học, thì Trung Hoa và Liên Xô đã có sự bất đồng ý kiến về dự án làm sao thống nhất Việt Nam. Cố Vấn LiênXô ủng hộ sự hoà bình chung sống giữa Nam, Bắc Việt Nam, kêu gọi Hà Nội ” thống nhất đất nước qua và trong dự án Hoà Bình Độc Lập Dân Chủ Hoá”, ngược lại thì phía Trung Hoa cho rằng “tại vì sự phá hoại của chế độ quân chủ nên không thể nào thống nhất Việt Nam qua cái gọi dân chủ bầu cử như đã viết trong Hiệp Định Geneva, và như vậy con đường duy nhất là CS-Bắc Việt nên chuẩn bị cho một chiến tranh sắp tới”.
Ngày 24 Tháng 12, 1955, CSTQ quyết định rút Bộ Quân Mưu CMAG ra khỏi Vietnam; Peng Dehuai đã cho Võ Nguyên Giáp biết cái quyết định này. Tới vào giữa tháng 3, 1956, cán bộ cuối cùng của CMAG đã rời khỏi CSVN. Để thay thế Bộ Quân Mưu CMAG, Bắc Kinh đã gửi đến một Ban Quân Mưu nhỏ hơn dưới quyền của Hoàng Văn Quân để giúp đỡ CSVN.
Sự thay đổi này đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận lớn trong nội bộ ban lãnh đạo CSVN 1956, về quyết định “người nào sẽ phải gánh vác trách nhiệm về bắt trước dự án Cải Cách Ruộng Đất của Trung Quốc từ năm 1953” . Trường Chinh, Tồng Thư Ký Đảng CSVN, người đã lãnh đạo trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, đã bị cách chức tại Quốc Hội Trung Ương vào tháng 9, 1956. Lê Duẫn, lên thay thế lãnh chức vụ Tổng Thư Ký CSVN, đã chỉ chứng Trường Chinh, tội danh thi hành Cải Cách Ruộng Đất của Trung Quốc với Việt Nam bất chấp những sự thật xảy ra tại Việt Nam.
Sự thất bại của Cải Cách Ruộng Đất đã khiến trong Đảng CSVN biết rõ là con đường thống nhất Việt Nam, như trong Hiệp Định Geneva bầu cử Dân Chủ, đã không thể thực thi. Khi cái hy vọng thống nhất bằng lòng dân qua bầu cử của Đảng CSVN bị sụp đổ, thì CSVN cũng phải đang đối diện với vấn nạn kinh tế của XHCN. Nguồn cung cấp gạo tại Hà Nội trở thành vấn nạn, CSVN vì đã quay lưng với hiệp dịnh Geneva, âm thầm quậy phá miền Nam bôi nhọ và ám sát nhân viên Cao cấp của miền Nam, nên CSVN không thể mở miệng xin mong sự giúp đõ từ kinh tế Miền Nam, CSVN ngoài phải tự trồng trọt kiếm ăn mặt khác, ban lãnh đạo Hà Nội tiếp tục quay về với Trung Quốc bất chấp vì nghe lời Bắc Kinh mà kết quả là những đau thương của Cải Cách Ruộng Đất.
Tháng 4, 1956, Phó Thủ Tướng CSTQ Chen Yun, một nhà kinh tế gia chuyên môn trong Đảng CS Trung Quốc, đã âm thầm không công khai đến Hà Nội. Trước lời yêu cầu của Hồ Chí Minh, Chen đưa ra dư án chính về “Ưu Tiên Kỷ Ghệ Nông Nghiệp và cũng như đặt kỷ nghệ nhỏ lên trước kỹ nghệ lớn” (light industry ahead of heavy industry) để nâng cao nền kinh tế Bắc Việt. Ban lãnh đạo CSVN chấp nhận dự án của Chen. Sự thật bằng chứng là CSTQ đã bỏ ra rất nhiều trong việc nâng cao kinh tế trong phần kỹ nghệ lớn tại Trung Hoa trong 5 năm đầu vào thời gian đó, sự khoa chương phóng đại của Chen về nông nghiệp và những kỹ nghệ nhỏ rất là khác thường, và cũng như sự chứng minh là Trung Quốc luôn quan tâm nhiều đến hình trạng tại VN trong sự “cố vấn” và tài trợ của Bắc Kinh đối với CSVN. Chu Ân Lai lập lại sự quyết định của Chen về sự cận trọng trong những dự án kinh tế trong qua trình viếng thăm Hà Nội vào ngày 18-22 tháng 11, 1956, cũng như Lai đã nói với Hồ Chí Minh phải kiềm chế những sự hấp tấp về những dư án thu hoạt Nông Nghiệp: “sự thay đổi đó phải đi từng bước một.”
Nhà văn Donald S. Zagoria đã phản luận trong cuốn sách Vietnam Triangle (VN Tam Giác) là trong thời gian 1957 và 1960, CSVN đã thay đổi từ trung thành với Bắc Kinh qua Liên Xô để có sự tài trợ của Liên Xô về những dự án nâng cao nền kinh tế XHCN-VNt.11 Trên thực tế, ban lãnh đạo Hà Nội vẫn tiếp tục, báo cáo và xin lệnh CSTQ về những quyết định quan trọng như củng cố nền kinh tế tại Miền Bắc và công cuộc cách mạng nơi Miền Nam. Trong quá trình tái tạo nền kinh tế của XHCN-VN 1958, bộ chính trị CSVN bắt đầu đặt tâm vào công cuộc cách mạng tấn công Miền Nam VN. CSVN báo cáo và xin quyết định từ CSTQ. Vào mùa Hạ 1958, Bộ Chính Trị CSVN đưa trình lên CSTQ để xin quyết định cho 2 dự án “Sự nhận định về dự án Căn Bản cho ViệtNam trong giai đoạn mới ” và “Ý kiến về dự án thống nhất vỹ tuyến Unification Line và con đường cách mạng nơi miền Nam.”
Sau khi tham khảo cẩn thận, Ban Lãnh Đạo CSTQ đã trả lời bằng một lá thư, chỉ thị “nền tảng chủ yếu nhất, những quyết định quan trọng nhất, và những dự án khẩn cấp nhất” cho công cuộc cách mạng của CSVN là phải thực thi Cách Mạng Chủ Nghĩa Xã Hội và Chủ Nghĩa Xây Dựng Xã Hội tại miền Bắc. Về phía miền Nam, CSTQ tiếp tục chỉ thị, dự án mà Hà Nội phải thực thi là phải nâng cao khẩu hiệu “Quốc Gia và Cách Mạng Dân Chủ.” Tuy nhiên, khi trong thực tại sự nhận thức về công cuộc cách mạng trong lúc đó vốn dĩ bất khả thi, CSTQ kết luận, CSVN nên “thành lập một công cuộc đường hầm dài lâu, dưỡng sức, thành lập bộ tuyên truyền đến với đa số, và chờ đợi cơ hội thích hợp.” Nói thẳng ra, Bắc Kinh thật sự không mong muốn lâm vào cảnh CSVN chính thức ra mặt đối kháng với Hoa Kỳ. Judging by subsequent developments, CSVN đã không dám cải lời CSTQ, trong thời gian 1958 và 1960 Hanoi luôn chú tâm vào nền kinh tế miền Bắc VN, thực thi “Dự Án 3 Năm” cải tổ chủ nghĩa về mặt kinh tế và xã hội. Chính sách trở lại với thủ đoạn Cách mạng Bạo Lực được Trung Ương Đảng CSVN thực thi vào tháng 5, 1959 nhưng lại không nói rõ phải đi theo đường hướng nào. Thậm chí cũng không nhắc đến những trắc trở của sự hợp nhất giữa quân sự và chính trị phải đối diện. Trong 2 năm kế tiếp, ban lãnh đaọ CSVN tiếp tục tranh luận về những mựu lược và sách lược. Hồ Chí Minh tiếp lục báo cáo và thỉnh lệnh với CSTQ. Vào tháng 5, 1960, CSVN và lãnh tụ CSTQ đã mở cuộc thảo luận tại Hà Nội và Bắc Kinh về những sách lược xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đưa ra lập luận rằng trong những sự tranh giành trong chính trị nên hợp nhất với vũ khí và quân sự khi những thực trạng đang xãy ra giữa những thành phố và những vùng quê trong miền Nam, một sách lược tranh đấu uyễn chuyễn cần nên được thi hành. Với trong Thành Phố, CSTQ đưa quyết định, tranh đấu bằng chính trị nên được làm sách lược chính, tuy nhiên nếu muốn đánh sụp chế độ ông Diệm, thì vũ lực thật sự là cần thiết. Bởi vì đã có nhiều và đa số những căn cứ nơi những vùng quê, thì lực lượng quân sự nên được thành lập tại đó, tuy nhiên đấu tranh bằng quân sự nên kèm theo với đấu tranh chính trị.
Vào tháng 9- 1960, CSVN mở Đại Hội Đảng CS lần thứ 3, nhưng lại không có quyết định gì về những tình trạng thối nát hiện tại nơi miền Bắc, thay vào đó là chỉ âm mưu đánh chiếm khi nền chính trị miền Nam Việt Nam đang lung lay. Để lợi dụng cơ hội mới này, Quốc Hội CSVN kêu gọi và ra lệnh cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực thi cả 2 chính sách đấu tranh bằng chính trị và quân sự đối với miền Nam VN, và kêu gọi sự yểm trợ tối đa từ miền Bắc. Sách lược liên kết đấu tranh bằng quân sự và chính trị với miền Nam vốn là những dự án và quyết định từ CSTQ.
Vào mùa Xuân 1961, Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy chấp thuận tăng viện trợ về Quân Sự và Ban Quân Mưu (MAAG) với 100 cố vấn và đã gửi đến Việt Nam 400 lực lượng đặc biệt để huấn luyện quân đội miền Nam những cách tiếp chiến khẩn cấp. Sự viện trợ của Hoa Kỳ với Đông Nam Á đã khiến Lãnh đạo Bắc Kinh không yên tâm. Trong lúc Thủ Tướng CS là Phạm Văn Đồng sang Bắc Kinh vào tháng 6-1961, Mao Trạch Đông đã quyết định tăng thêm viện trợ cho mặt trận xâm lấn miền Nam trong khi Chu Ân Lai tiếp tục hối thúc phải thực thi những sách lược uyển chuyển và quan trọng nhất là “liên hợp giữa chính sách đấu tranh hợp pháp và đấu tranh bằng thủ đoạn đen tối phi pháp cũng như phải liên kết đấu tranh bằng chính trị và quân sự.”
Năm 1962 một sự kiện thay đổi lớn giữa sư nhúng tay của Hoa Kỳ và thái độ cũng như hành động của Trung Quốc đối với cuộc nội chiến của Việt Nam. Vào tháng 2, Hoa Thịnh Đốn (Washington) thành lập tại Sài Gòn một ban Quân Mưu (Military Assistance Command, Vietnam (MAC,V)), để thay thế MAAG. Chính Phủ Kennedy buộc ghép ban hành hành động này với số tăng trưởng mạnh về mặt Cố Vấn Hoa Kỳ và số lượng quân sự tiếp viện với chính phủ Diệm, đánh dấu cho một tầng lớp mới về mật tham dự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Vào mùa Xuân năm đó, một cuộc tranh luận xảy ra trong nội bộ ban lãnh đão Trung Quốc phán đoán một Thế Chiến sẽ xảy ra, và dự định có thể hoà bình sống với những quốc gia tư bản, và mức độ tài trợ của TrungQuôc đối với “công cuộc Giải Phóng”. Vào ngày 27 tháng 2, Wang Jiaxiang, Bộ Trưởng Bộ Liên Lạc Ngoại Giao, gửi một lá thư cho Chu Ân Lai, Đặng tiểu Bình và Chen Yi ( bộ 3 cầm quyền về chích sách ngoại giao), phản đối và chỉ trich khuynh hướng đánh giá cao về mặt nguy cơ Thế Chiến xảy ra, và đã đánh giá thấp về những cơ hội hoà bình chung sống với những đế quốc. Về mặt yểm trợ cho “công cuộc giải phóng toàn quốc”, Wang đã thận trọng thận trọng nhấn mạnh, kêu gọi sự chú ý đến những vấn nạn kinh tế của Trung Quốc và hạn hẹp tài nguyên. Về vần đề của Việt Nam, Wang yêu cầu Đảng CS Trung Quốc “cảnh giác đối với những đường lối chiến tranh của Đế Quốc Mỹ đã thực thi ở Đại Hàn” và cũng cảnh báo về nguy cơ “Khrushchev và những người cùng phe đang kéo chúng vào một cạm bẫy chiến tranh.” Wang đưa ra dự án, nếu muốn chỉnh đốn và tái tạo lại nền kinh tế và thắng lợi vượt qua những sóng gió giai đoạn khó khăn, Trung Quốc nên chấp nhận một chính sách hoà bình và và thoả hiệp về mặt ngoại giao, và với lãnh vực ngoại vận Trung Quốc không nên làm những gì không có khả năng. Nhưng Mao Trạch Đông đã bỏ ngoài tai những ý kiến và dự án nêu ra của Wang, thậm chí còn phán tội danh cho Wang là kẻ nâng cao “chủ nghĩa xét lại” chính sách ngoại giao của “3 điều thoả mản và một sự giảm bớt” (sự thoả mản với đế quốc, chủ nghĩa xét lại, và thế giới bảo thủ hoá , và giảm bớt sự yểm trợ cho công cuộc Giải Phóng Toàn Quốc.)
Sự biến diễn của cuộc tranh luận đã tạo ra những quyết định chính cho những chính sách của CSTQ đối với Việt. Nếu như ý kiến của Wang được chấp nhận, thì nó sẽ có nghĩa là vai trò của CSTQ đối với Đông Nam Á phải bị hạn chế. Nhưng Mao Trạch Đông đã quay sang con đường quân sự, chọn lựa đối mặt với Hoa Kỳ. Sự việc này đã chuyển sang bên trái của những chính sách ngoại giao, với sự nhấn mạnh của Mao trạch Đông về tranh đấu giai cấp và chính sách cấp tiến trong sự liên hệ nội bộ Trung Quốc 1962. Sự việc này cũng ảnh hưởng đến vai trò của CSTQ đối với những vấn nạn chưa dàn xếp nơi Việt Nam. Với sự bỏ ngoài tai ý kiến của Wang, một cơ hội đã trồi lên sau này cho Hoa Kỳ len lõi vào Đông Nam Á đã bị hụt.
2014 JUNE 10 HCM.CEL.BB300
Vào mùa Hạ 1962, Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh đến Bắc Kinh để bàn thảo với ban lãnh đạo CSTQ về tình trạng quan trọng do sự nhúng tay của Hoa Kỳ với Việt Nam và có thể Hoa Kỳ sẽ có một cuộc tấn công Bắc Việt Nam. Hồ Chí Minh “xin” CSTQ tài trợ cho công cuộc du kích tại miền Nam. Bắc Kinh đã thoả mán sự “xin cầu” của Hồ Chí Minh bằng cách đồng ý gửi cho CSVN 90,000 cây súng trường và súng máy (AK), số lượng này có thể trang bị cho 230 bộ binh tác chiến hat could equip 230 infantry battalions. Những vũ khí này sẽ được dùng để yểm trợ mặt trận du kích tại miền Nam. Vào tháng3,1963, Luu Thieu Ky, Bộ Trưởng Dân Nhân Giải Phóng Quân của Trung Hoa (Chief of Staff of the Chinese People’s Liberation Army (PLA)), ghé thăm CSVN và bàn luận với CSVN, CSTQ sẽ yểm trợ cho CSVN bằng cách nào nếu Hoa Kỳ tấn công miền Bắc. Hai tháng sau, Lưu thiếu Kỳ, chủ tịch của PRC, đến Hà Nội, và nói với Hồ Chí Minh: “Chúng tôi luôn sát cánh bên đồng chí, và nếu như chiến tranh bùng nổ, đồng chí có thể nhìn Trung Hoa như là một cánh tay.”
Sự thật thì, Bắc Kinh đã sớm chính thức ký kết với Hà Nội vào đầu năm 1963. Đến cuối năm đó, cán bộ của CSTQ và CSVN đã bàn thảo về sự viện trợ giúp đỡ của Bắc Kinh về dự án xây dựng những công trình phòng chiến và căn cứ Hải Quân ở vùng Đông Bắc lãnh thổ CSVN. Theo tài liệu từ Trung Hoa, vào năm 1963 CSTQ và CSVN đã ngầm ký kết hiệp định là Bắc Kinh sẽ gửi quân tác chiến vào Bắc Việt Nam khi cần. Quân đội CSTQ sẽ ở lại và chiến đấu tại miền Bắc để đoàn quân VC được rãnh tay xuống miền Nam. Nhưng ngày giờ và điều kiện trong bản hiệp địh tới nay vẫn không rõ ràng.Tổng kết, trong giai đoạn từ 1954 và 1963 Trung Quốc đã và luôn chặt chẻ tham dự vào trong những sự phát triển và quyết định của nền tảng chính trị Hà Nội. Đảng CS Trung Quốc “yêu cầu” Hồ Chí Minh phải chú tâm vào củng cố Đảng CSVN và liên kết sách lược đấu tranh bằng chính trị và quân sự đối với miền Nam VN.. Trong những năm từ 1956 và 1963, CSQT đã tiếp trợ cho CSVN 270,000 cây súng, trên 10,000 đại pháo , trên 200 triệu đạn dược, 2.02 triệu Trái Pháo , 15,000 dây truyền tin, 5,000 radio thông tin, trên 1,000 xe vận tải, 15 chiếc máy bay, 28 tàu chiến, và 1.18 triệu quân phục. Tổng số viện trợ từ CSTQ đối với CSVN trong thời gian này là hơn 320 triệu nhân dân tệ. Năm 1962 là một năm chủ yếu của những sự quyết định của những hành động cũng như thái độ của Trung Quốc đối với Việt Nam. Bỏ rơi dự án tiến tới trong thận trọng, Mao Trạch Đông đã chọn con đường đối đầu với Hoa Kỳ và quyết định đẩy mạnh sự tài trợ cần thiết từ Trung Quốc đến Hà Nội. Số lượng lớn viện trợ vũ khí từ Bắc Kinh đến với CSVN vào năm 1962 đã giúp đỡ Hồ chí Minh đẩy mạnh mặt trận du kích trong miền Nam, và đã khơi dậy thêm sự nhúng tay của Hoa Kỳ. Vào cuối năm 1963, ban lãnh đạo Trung Quốc rất là bất an về sự quyết định của Hoa Kỳ đối với Việt Nam tuy nhiên CSTQ vẫn luôn yểm trợ và tài trợ tối đa cho CSVN đối mặt với Hoa Kỳ.

Nhất Thanh Tóm Dịch


Triệt Để Ly Khai Chủ Nghĩa Marx-Lenin Và San Bằng Huyền Thoại Hồ Chi Minh Để Cứu Nước

2014 MAY 19 TAI ƯƠNG CSVN
Chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn với nhân loại một tương lai huy hoàng nhưng hứa hẹn này đã bị thực tế phủ nhận. Marx đã khổ công phê phán chủ nghĩa Tư Bản nhưng khi nói về chủ nghĩa Cộng Sản thì cách tiếp cận của ông lại mang sắc thái một lời tiên tri phỏng đoán. Nội dung những lời thuyết giảng của ông không được chứng nhận qua thời gian.
Trong những nước mà cách mạng vô sản thành công, trái với sự răn dạy của Marx, thì điều gì đã xảy ra ? Thiên đường cộng sản chưa bao giờ xuất hiện trong khi cảnh nghèo đói cứ tiệp tục tồn tại hết năm này qua năm khác. Đấy là chưa kể sự hành hạ thiếu nhân đạo của những chế độ độc tài vô trách nhiệm, tham nhũng và tham quyển cố vị như mọi người đều đã thấy.
Sự sụp đổ của Liên Xô đầu thập niên 1990 đã kéo theo sự ra đi hàng loạt của hầu hết các chế độ độc tài khác trên thế giới. Sơ xuất lớn nhất của Marx là đã coi thường và miệt thị kinh tế Tư Bản. Thực tế cho thấy quyền tư hữu và kinh tế thị trường tự do có một sức mạnh và một tính năng động vượt xa trí thưởng tượng và tầm hiểu biết của nhà tiên tri cộng sản.
Giấc mơ “hàng hóa chảy ra như suối” hiện đang là thực tế hàng ngày trong các xã hội Tư Bản, không cần phải chứng minh. Vậy thì còn lý do gì nữa để không rứt khóat với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin và san bằng huyền thoại Hồ Chí Minh, hầu nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng của nhân lọai văn minh.
Đây không phải là lần đầu tiên lời kêu gọi này được đưa ra. Nhưng lần này lời kêu gọi thống thiết đó nó vẫn cần được nhắc lại, vì tổ quốc đang trong cơn nguy biến. Không có sức mạnh của toàn dân thì không thể nào cứu nguy đẫt nước, khi giặc đã bắt đầu xâm lấn lãnh hải và lãnh thổ của nước ta.
Chủ nghĩa Marx đã lui vào lịch sử
Đó là sự thật, nhưng nếu ai chưa chưa đủ lòng tin thì xin đọc những dòng viết tiếp theo. Năm 1941, Marx bị chính quyền Đức theo dõi vì những bài viết chống đối nhà nước. Ông đem gia đình qua Pháp và cư trú tại thủ đô Paris. Tại đây, ông gặp F. Engels. Hai ngưởi làm quen nhau, ý hợp tâm đầu và từ đó cộng tác thân mật với nhau trong nhiều hoạt động cách mạng.
Chủ nghĩa Tư Bản xuất hiện vào đầu thế kỳ 17 tại Âu Châu. Hồi đó sự phát minh ra máy dệt rèm hoa đã gây nên một làn sóng bạo động của công nhân tại Đức. Bước sang thế kỷ 19, ở Anh vẫn còn nổ ra những phong trào phá hoại máy móc với quy mô lớn.
Khảo sát khu công nghiệp Manchester ở Anh vào năm 1844 Engels , lúc đó mới 24 tuổi, cũng phản đối việc đưa máy móc vào sản xuất. Ông viết tác phẩm “The condition Of The Working Class In England” xuất Bản năm 1845. Hồi đó, khu công nghiệp Manchester mới chập chững đi vào mô hình phát triển Tư Bản.
Năm 1848, sau khi viết và cho công bố bản Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản, Marx và gia đình phải bỏ Pháp chạy sang Anh lánh nạn vì bị truy lùng. Lúc đó, Marx mới 30 tuổi. Trong khu vực Soho buồn tẻ của thủ đô Luân Đôn, ông sống đau yếu và thiếu thốn với sự trợ cấp của Engels.
Ông bắt đầu viết sách. Quyển Tư Bản Luận số I (Das Capital I) được viết căn cứ trên cuốn “The Condition Of The Working Class In England” của Engels. Tác phẩm này của Marx được coi như thánh kinh của giai cấp lao động, chỉ tiếc rằng hiện tượng Tư Bản Manchester lúc đó còn quá sơ khai nên công trình phân tích của Marx được đánh giá như hơi vội vã. Thật vậy, những lời tiên đoán tự cho là khoa học liên quan đến giai đọan quá độ, thế giới đại đồng, sự tiêu vong của nhà nước…đã không được thực tế chứng nghiệm và chỉ có giá trị như những lời tiên tri bói toán.
Năm 1866, nghĩa là 18 năm sau khi Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản được công bố, khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ. Sau khi khủng hoảng này chấm dứt, chủ nghĩa Tư Bản đã tự điều chính bằng một sáng tạo mang tính lịch sử. Đó là sự ra đời của Công Ty Cổ Phần và Ngân Hàng Đầu Tư Quy Mô Lớn. Với sự sáng tạo này, vốn của xí nghiệp không còn dựa vào tiết kiệm và dự trữ của một số nhà tư bản nữa mà dựa vào tiền dự trữ của toàn xã hội.
Như vậy, quyền sở hữu được tách rời khỏi quyền quản lý xí nghiệp. Việc tách rời này là một cuộc cánh mạng tạo khả năng “quá độ hòa bình” sang một chế độ mới. Với Công Ty Cổ Phần Marx đã thấy xuất hiện nhân tố “xã hội chủ nghĩa” từ sự phát triển của chủ nghia Tư Bản.
Hai mươi năm, sau khi bản Tuyên Ngôn Cộng Sản ra đời (1848), Marx đã tìm thấy “bước quá độ hòa bình” này. Trong tập III Tư Bản Luận, ông đã sửa chữa kết luận của tập I Tư Bản Luận và nói rằng không cần phải làm nổ tung cái vỏ ngoài của chủ nghĩa Tư Bản nữa. Những gì ông đã nói về Tư Bản Manchester cũng hoàn toàn bị xóa bỏ .
Khi Marx yêu cầu Darwin viết đề tựa cho cuốn Tư Bản liận đầu tiên, ông đã bị Darwin từ chối. Những cuốn Tư Bản Luận tiếp theo, do Engels xuất bản sau khi ông chết (1883) không có mấy ai đọc, trừ một vài nhà nghiên cứu.
Chính Marx cũng nhìn nhận sự phá sản của chủ thuyết cách mạng vô sản của mình. Năm 1872 sau khi Quốc Tế I tan vỡ ông gửi thông điệp cho phân bộ Hoà Lan nói : “Tại những nước như Mỹ và Anh, người lao động có thể đạt tới mục tiêu của mình bằng những phương tiện ôn hòa”. Vào năm trước khi chết, có lần ông đã xác nhận: “Điều chắc chắn, tôi không phải là người Marxist”.
Ngày 6/3/1895, không đầy 5 tháng trước khi qua đời, trong lời nói đầu viết cho tác phẩm “The Class Struggle In France- Đấu Tranh Giai Cấp Ở Pháp” của Marx, Engels cũng sứa lại toàn bộ chủ nghĩa Marx và nhắn với hậu thế rằng “Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lối thời về mọi mặt”.
Như vậy trong các tác phẩm của Marx và Engels có hai con đường “xã hội chủ nghĩa” : xã hội chu nghĩa bạo lực và xã hội chủ nghĩa dân chủ. Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản và Quyển I Tư Bản Luận là căn cứ lý luận của Chủ Nghĩa Xã Hội Bạo Lực. Tập III Tư Bản Luận và Lời Nói Đầu do Engels viết cho cuốn Đấu Tranh Giai Cấp Ở Pháp là cơ sở lý luận của chủ nghĩa Dân Chủ Xã Hội.
Chủ Nghĩa Xã Hội Bạo Lực hứa hẹn với nhân loại một tương lai huy hoàng nhưng hứa hẹn đó đã bị thực tế phủ nhận. Cuộc thí nghiệm Cộng Sản như vậy là đã chấm dứt. Hệ thống chính trị độc tài, có lúc từng kiểm soát một phần ba nhân loại đã thực sự tan rã. Không có lý do thực tế nào để tin rằng trong tương lai nó còn có thể xuất hiện trở lại.
Chủ nghĩa Marx Lenin đã hoàn toàn phá sản
Điều cần phải nói ngay trước khi đi sâu vào việc phân tích thứ hai là : Lenin đã dấu nhẹm không cho ai biết việc Marx đã khám phá ra bước “quá độ hoà bình” và như vậy hắn đã nhập cảng nguyên con vào nước Nga phần lý thuyết Mác Xít lỗi thời mà cả Marx lẫn Engels đều chối bỏ lúc về già.
Chủ nghĩa Marx-Lenin là một ứng dụng của chủ nghĩa Marx bạo lực vào thực tế do Lenin khai triển. Công thức này đã mang lại thắng lợi cho cuộc cướp chính quyền Nga tháng 10 năm 1917 và trở thành nền tảng ý thức hệ của phong trào cộng sản thế giới với trung tâm là Liên Xô.
Thế Kỷ 20, thuật ngữ Marxism-Leninism được ưa chuộng không chỉ trong sinh hoạt của Đệ Tam Quốc Tế mà còn cả trong nội bộ các Đảng Cộng Sản nhỏ trên khắp thế giới. Tại sao ? Vì chủ nghĩa Marx-Lenin đã đưa ra mẫu hình chung cho mọi cuộc cách mạng vô sản cướp chính quyền tại “Thế Giới Thư Ba” cũng như tại một vài nới khác. Nó chú trọng vào thực tế hơn là vào lý thuyết nên rất cần thiết cho việc huấn luyện và đào tạo đảng viên.
Với khả năng nhạy bén hiếm có về chính trị, Lenin nhận ra ngay bản chất tàn bạo của chủ nghĩa Marx. Đây là con đương từ lâu y tim kiếm. Cho nên y chỉ cần thêm vào đó một cơ chế chính trị̣ để biến tư tưởng thành hiện thực. Với niềm tin đó chủ nghĩa Marx-Lenin xuất hiện. Nó trở thành công cụ để cướp giữ chính quyền của một nhóm người ham danh và tham lợi.
Lenin sinh trưởng ở Nga, một nước mà từ ngàn xưa chỉ có những chế độ chính trị cực kỳ tàn bạo. Bạo lực là nền tảng của nước này và Lenin thấm nhuần văn hóa ấy. Trong cuộc đời hoạt động lúc chưa nắm chính quyền Lenin chịu ảnh hưởng của hai người : Louis Auguste Blanqui và Sergey Genadievich Nechayev.
Louis Auguste Blanqui (1805-1881 là người lãnh đạo một tổ chức bí mật tại Pháp thuộc phe Cách Mạng Bạo Lực trong Quốc Tế I và là chỉ huy quân sự của Công Xã Paris. Nội dung của chủ nghĩa Blanqui là : “phải tin chắc, bất kể sự phát triển sức sản xuất ở trình độ nào, chỉ cần dựa vào bạo lực là có thể tạo ra một thế giới mới không có bóc lột, không có áp bức”. Lenin đã tiếp thu giáo huấn bạo lực này từ rất sớm.
Sergey Genadievich Nechayev (1847-1881) là một người Nga theo chủ nghĩa “vô chính phủ”. Y cầm đầu một nhóm nhỏ gồm khoảng 200 sinh viên tại đại học St Petersburg và bị giam trong tù cho đến khi chết lúc mới 35 tuổi vì giết một người bạn. Kinh bổn bạo lực của Nechayev là sách gối đầu giường của Lenin.
Lenin đã dùng chủ nghĩa Marx lỗi thời để lừa bịp dân chúng, phối hợp với chủ nghĩa bạo lực khởi loạn của Blanqui-Nechayev để giết người hàng loạt và cướp đoạt chính quyền. Đó là nội dung và bản chất đích thực của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Người Nga có truyền thống đế quốc từ lâu đời. Tham vọng thống trị thế giới từ thời Sa Hoàng Ivan Đệ Tam (1440-1503) và dưới thời Lenin không chỉ gần giống nhau mà in hệt nhau. Cái gọi là Chủ Nghĩa Marx-Lenin đã phục vụ đắc lực cho tham vọng đế quốc giấu mặt của Liên Xô. Khi Lenin thiết kế “chiến thuật tạo phản” (hay kỹ thuật khởi loạn) không phải chỉ để lật đổ Sa Hoàng mà còn để chiến thắng kẻ thù và nới rộng thế lực trên toàn thế giời.
Marx và Engels không phải là những nguời chủ trương đế quốc. Chính Lenin và Stalin đã kết hợp mộng xâm chiếm thế giới từ xưa của nước Nga với học thuyết của Marx để thiết kế những chiến thuật cùng mưu lược khởi loạn dùng làm nội dung của kinh bổn giáo lý để xây dựng một đế quốc chuyên chính.
Nhưng đế quốc Liên Xô ngày nay đã tan rã. Bộ phận tàn dư của nó giờ đây chỉ còn Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba. Trung Quốc dẫn đầu nhóm tàn dư đó vẫn còn tư tưởng hâm nóng và nới rộng “Chủ Nghĩa Địa Phương Xô Viết” (Provincalism Soviétique) có từ thời Khrutshev để giữ vững vi trí của mình.
Nếu trong dĩ vãng các chính quyền cộng sản đã cam tâm “ăn thịt” con dân cùa họ để chiếm chính quyền và cai trị thì ngày nay họ vẫn tiếp tục dùng sức mạnh nước lớn để ”ăn thịt” lẫn nhau ngõ hầu tồn tại và phát triển. Việt Nam, vì tiếp giáp với Trung Quốc tại biên giới phía Nam và kiểm soát khoảng 3000 cây số Biển Đông, hiện đang là điểm nhắm đầu tiên trong ý đồ bá quyền khu vực của Bắc Kinh..
Tham vọng nước lớn của Bắc Kinh
Sau ba thập kỷ hiện đại hóa và phát triển Trung Quốc bước vào Thế Kỷ 21 với một tinh thần tự tín. Trung Quốc hiện đã trở thành một quốc gia có bom nguyên tử và có chỗ ngồi “vế trên” trong Liên Hiệp Quốc. Tuy chưa hẳn là một cường quốc như tỉ số phát triển giờ đây của Trung Quốc đang ở vào vị thế lớn nhất hoàn cầu.
Trung Quốc đang đi vào một thời kỳ phát triển mới. Mục tiêu của thời kỳ này là phát triển hài hòa và phương tiện để đạt mục tiêu đó là “chủ nghĩa dân chủ xã hội”. Tuy Bắc Kinh đang quan tâm khảo sát sự thực hành “dân chủ xã hội” ở Âu Châu nhưng nhóm lãnh đạo Trung Nam Hải vẫn tiếp tục thám hiểm xem có cách nào để một đảng chính trị có thể đại diện cho những quyền lợi chính trị và kinh tế khác nhau.
Bắc Kinh đang tiến hành chiến lược dài hạn nói trên bằng chính sách “ba vượt thoát”; thứ nhất, vượt thóat mẫu hình kỹ nghệ hóa cổ điển để đi theo mẫu hình kỹ nghệ hóa hiện đại ; thứ hai, vượt thoát tham vọng lỗi thời muốn trở thành bá chủ hoàn cầu ; thứ ba, vượt thoát lối cai trị cổ hủ của dĩ vãng để thay thế bằng lối cai trị mới hài hòa và nhân đạo.
Nhìn vào toan tính và thái độ của Trung Quốc hiện nay ta thấy triển vọng và thực tế dường như không phát triển song hành. Mặc dầu Hồ Cẩm Đào và một số lãnh tụ Trung Nam Hải muốn vượt thóat khỏi tham vọng lỗi thời trở thành siêu cường bá chủ thiên hạ nhưng trong thực tế thì niềm tự tôn Đại Hán của dân tộc vẫn còn đó và di huấn trả thù Tây Phương của Mao Trạch Đông vẫn tồn tại như một mệnh lệnh.
Sau khi lên ngôi chúa tể Mao Trạch Đông nhận định là các nước Phương Tây và Nhật Bản đã chhếm đoạt của Trung Quốc hàng trăm ngàn dặm vuông lãnh thổ và hàng tá nhượng địa. Mao thề phục hận để lấy lại tất cả những gì đã mất. Mao chú trọng đầu tiên đến Biển Đông và nói với các tướng lãnh : “Bắt đầu từ lúc này Thái Bình Dương không còn an bình nữa và chỉ trở lại an bình khi nào chúng ta làm chủ vùng này”.
Bản đồ Trung Quốc được Mao vẽ lại với sự nới rộng tùy tiện sang tứ phía. Bản đồ này bao gồm tất cả vùng Đông Nam Á , trong đó có Việt Mam, là những nước có biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, những nước có căn cứ quân sự do Hoa Kỳ chiếm giữ sau Chiến Tranh Lạnh và các phần đất Nội Mông, Mãn Châu, Tân Cương trong tay Liên Xô. Tất cả đều là những mục tiêu phải giành lại.
Mao chết năm 1976, nhưng chương trình phục hận của Mao đang được thế hệ lãnh đạo tiếp nối tiến hành. Họ đang mở cửa ngõ tiến về phía Nam để thực hiện kế hoạch “tàm thực” trên bộ và “vết dầu loang” trên biển. Bắc Kinh đang giải quyết tranh chấp vùng với thái độ “nước lớn” của một đại cường khu vực.
San bằng huyền thoại Hồ Chí Minh là đòi hỏi căn bản vào lúc này
Huyền thoại là lời nói có tác dụng mê hoặc. Khi xã hội loài người phân hóa thành giai cấp thì huyền thoại chủ yếu nhằm biện chính và bảo vệ lớp người cai trị trong cuộc cạnh tranh với lớp người bị trị. Do đo có thể nói rằng tầng lớp thống trị, nhất là các chế độ độc tài, thực dân và đế quốc, thiết yếu phải tạo ra huyền thoại như một nhu cầu gắn liền với bản chất của họ.
Tác dụng của huyền thoại, xuất phát từ giai cấp thống trị, là tạo niềm tin, một thái độ quy hàng của lý trí. Khi đã tin thì người ta coi đó là chân lý, là đương nhiên không cần thắc mắc và suy luận lôi thôi. Niềm tin đưa đến sự sùng bái và coi những sự không tôn trọng là xúc phạm.
Hồ Chí Minh đã qua đời gần 45 năm và hệ thống cộng sản thế giới đã tan vỡ gần 25 năm, nhưng hình ảnh của Hồ đến ngày nay vẫn còn ẩn hiện giữa thực tế và huyền thoại. Những người dễ dãi về nhận định coi ông như một nhà ái quốc của Việt Nam trong khi những người khác lại xem ông như kẻ đại phản quốc. Đối với tầm nhìn thứ hai này, Hồ Chí Minh đã đưa đất nước và đồng bào vào những cảnh khổ cực, đau đớn tột cùng để phuc vụ cho Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) và khoác lên đầu lên cổ dân tộc một nền đô hộ thứ hai, cho đến nay vẫn chưa gỡ bỏ được.
Cho nên nhận dạng con người thực và hành động của Hồ Chí Minh không chỉ cần thiết để thấy rõ một giai đoạn lịch sử bị xuyên tạc mà còn cần thiết cho mong mỏi đưa Việt Nam ra khỏi tai ách chính trị hiện nay. Giải tỏa huyền thoại Hồ Chí Minh phải là ưu tiên hàng đầu cần thực hiện.
Ở Nga, khi Lenin chết, Stalin đã làm đám tang hết sức trọng thể với các thủ tục ướp xác xây lăng tại Quảng Trường Đỏ vâ tôn sủng Lenin như một vị thánh. Stalin làm thế với dụng ý bắt dân Nga cũng phải tôn trọng mình như một á thánh. Ngoài ra Stalin còn viết sách để tự tô vẽ cho mình hình ảnh một lãnh tụ tài ba hơn cả Lenin.
Ở Việt Nam, khi Hồ Chí Minh chết, các đàn em trong Đảng Cộng Sản cũng ướp xác, xây lăng, đúc tượng mang vào đền chùa cúng bái. Riêng Hồ cũng viết hai cuốn sách để tự tâng bốc mình với bút hiệu Trần Dân Tiên và T. Lan. Trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hô Chủ Tịch”, Trần Dân Tiên không chỉ tự tâng bốc mình mà còn nói xấu các nhà cách mạng yêu nước tiền bối Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám. Năm 1976, Đảng và Nhà Nước cộng sản đã công khai xác nhận Trần Dân Tiên là bút hiệu của Hồ Chí Minh.
Với cuốn sách nói trên và kỹ thuật tuyên truyền lợi hại hoạt động trong một môi trường dân trí chưa cao, CSVN đã dễ dàng biến Hồ Chí Minh thành một vị thánh sống với cặp mắt có hai con ngươi, với cuộc đời hy sinh trọn vẹn mọi lạc thú bản thân để dồn hết tâm lực cho đất nước.
Thật ra, trong đời hoạt động chính trị của ông, Hồ đã có rất nhiều đàn bà. Thời gian ở với cu Phan Chu Trinh tại Paris (1917-1923) Hồ có tới hai người tình nhân thắm thiết, một tên là Bourdon, và người thứ hai tên Marie Brière. Cô này vừa là đồng chí (đảng viên Đảng Xã Hội), vừa là người tình. Người vợ đầu tiên mà Hồ Chí Minh cưới năm (1926) là một phụ nữ Trung Hoa mang tên Tăng Tuyết Minh. Ăn ở với nhau được một năm thì Hồ Chí Minh bỏ vợ và không bao giờ gặp lại.
Ngoài những người đàn bà nói trên Ông còn ăn nằm với Lê Thị Tâm, vợ của Hồ Tùng Mậu khi ông này bị bắt, Nguyễn Thị Minh Khai, vợ của Lê Hồng Phong khi ông này mất tự do. Minh Khai sinh cho ông một bé gái đặt tên là Lê Hồng Minh, giao cho Dương Bạch Mai nuôi dưỡng.
Khi về nước hoạt động,(1941) ông ăn nằm với một nữ đồng chí tên Đỗ Thị Lạc, và có với nhau một người con gái. Ông cũng ăn nằm với nữ cán bộ hộ lý Nông Thị Trưng, sinh ra Nông Đức Mạnh, và người đẹp sơn cước Nông Thị Xuân, sinh cho ông một người con trai đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Năm 1957 người ta phát giác xác chết của một phu nữ tại dốc Cổ Ngư (Hà Nội). Đưa vào bệnh viện, nhân diện là xác của cô Xuân. Khi phải đối mặt với những thực tế phũ phàng như vậy, mọi người cần giác ngộ. Giác ngộ để trả lại sự thật cho lịch sử và nới rộng phạm vi chân lý.
2014 MAY 19 TAI ƯƠNG CSVN
CSVN thường kể công bằng một số luận điểm quen thuộc để đánh lạc hướng nhận định của dư luận. Hồ Chí Minh xuất ngoại không phải là để tìm đường cứu nước mà chỉ là để tìm đường sống như nhiều người khác. Số phận đã đưa ông vào con đường chính trị khi ông đến Paris và xin ở cùng với cụ Phan Chu Trinh là một người bạn của bố ông.
Trong bối cảnh này, ông hoạt động trong nhóm mang tên Nguyễn Ái Quốc của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Rồi ông trở thành đảng viên Đảng Xã Hội Pháp, và đến năm 1920 thì chọn đi theo cộng sản. Theo cộng sản, ông Hồ đã nhắm mắt thi hành sách lược của Đệ Tam Quốc Tế (QTCS) mà không màng gì đến quyền lợi của dân tộc.
Sau khi được kết nạp làm cán bộ thừa hành ăn lương của QTCS, năm 1924, Hồ Chí Minh được phái sang Hoa Nam công tác với nhiệm vụ thành lập một số đảng cộng sàn địa phương, chủ yếu là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Từ Quảng Châu ông tìm cách xâm nhập Tâm Tâm Xã và Việt Nam Phục Quốc Hội của cụ Phan Bội Châu để sang đoạt tổ chức này. Hành động phản bội đầu tiên là tuyên truyền chủ thuyết cộng sản để đầu độc tư tưởng các nhà yêu nước trẻ tuổi và tách họ khỏi tổ chức của cụ Phan. Hành động phản bội thứ hai là âm mưu với tên Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp để loại bỏ một đối thủ chính trị và lấy tiền hoạt động cho tổ chức cộng sản đang trên đà thành lập. Hành động phản bội thứ ba là qua đường giây Lâm ĐứcThụ, báo cho Pháp bắt những nhà cách mạng dân tộc về nước sau khi huấn luyện. Bằng ba phương cách trên Hồ Chí Minh đã triệt hạ tổ chức yêu nước chân chính của cụ Phan Bội Châu và lập nên hạt nhân cộng sản tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế dưới cái tên là Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội.
Năm 1938, khi được QTCS phái sang Hoa Nam lần thứ hai với nhiệm vụ chuẩn bị về nước cướp chính quyền, Hồ Chí Minh đã sang đoạt tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của cụ Hồ Học Lãm và lợi dụng tư thế chính trị của cụ Trương Bội Công để huận luyện binh sĩ, cán bộ. Với xảo thuật tuyên truyền cộng sản, ông Hồ đã làm suy yếu các lực lượng cách mang dân tộc chân chính này.
Hành động phản dân tộc, phản cách mạng nặng nhất của Hồ Chí Minh là ký kết Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/1946 cho phép thực dân Pháp trở lại VIệt Nam để đổi lấy một lời hứa hẹn độc lập vu vơ. Hồ Chi Minh thi hành thủ đoạn này để có thời gian triệt hạ mọi lực lượng chống đối trong nước gồm có : Việt Cách, Việt Quốc, Đại Việt, Đệ Tứ Quốc Tế, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và các nhân vật chế độ cũ. Thủ đoạn này cũng nhằm tạo chính danh lãnh đạo và sự công nhận quốc tế đối với chính quyền cộng sàn. Hậu quả là đã xảy ra “cuộc chiến chín năm” giữa hai loại thực dân cũ (Pháp) và mới (chi bộ Việt Nam của QTCS) và hai nền đô hộ chồng chéo đã giáng xuống đầu dân tộc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là do chiến lược cùa Bắc Kinh và do tài điều động quân sĩ của tướng Trung Cộng Vi Quốc Thanh chứ không phải công lao của Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của Võ Nguyên Giáp được đưa ra để tránh sự nhạy cảm có thể khiến Mỹ nhảy vào cuộc chiến như đả xảy ra trong chiến tranh Triều Tiên. Chính vì vậy mà khi Liên Xô, Trung Quốc, Anh Pháp quyết định ngưng chiến và chia đôi đất nước Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đã không được tham dự và có tiếng nói trong cuộc chia cắt này. Làm như thế để không cho CSVN trở thành một lực lượng quá mạnh có thể kiểm soát toàn cõi Đông Dương.
Còn vụ đụng đầu lịch sử với Mỹ thì sự thật này phải được theo dõi trên hai bình diện quốc nội và quốc tế. Trên bình diện quốc nội, cuộc Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân 1968 đã nói lên tất cả. Võ Nguyên Giáp đã “nướng” 55.000 quân trong chiến dịch hồ đồ này. Quân lực miền Nam đã đánh tan đoàn quân xâm lăng và đã làm thui chột ý chí bành trướng của Hà Nội. Hình ảnh hào hùng của các trận Quảng trị và An Lộc là những giấc mơ hãi hùng của kẻ đi chiếm đất Trên bình diện quốc tế, Mỹ bỏ miền Nam Việt Nam vì thay đổi chiến lược toàn cầu. Quyết định thay đổi đã xảy ra từ khi Thông Cáo Chung Thượng Hải được ký kết năm 1972. Kế hoạch khai tử nền cộng hòa miền Nam Việt Nam là miếng mồi nhử tẩm thuốc độc làm cho Lên Xô suy nhược và đi đến sụp đổ.
2014 MAY 19 TAI ƯƠNG CSVN
Có hai ý nghĩa trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nếu vì độc lập dân tộc thì đó là một cuộc chiến chống thực dân. Còn nếu vì muốn xây dựng chế độ cộng sản thì đó là một cuộc chiến tranh chống tự do. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản của ông đã lựa chọn con đường thứ hai. Con đường này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng nghiệm như là một thảm họa cho nhân loại. Đem thảm họa về cho dân tộc, Hồ Chí Minh và những người cộng sản đã có tội rất lớn đối với tổ quốc.
Giờ đây Hồ Chí Minh đã chết, nhưng Đảng Cộng Sản vẫn còn lây lất tồn tại đi theo giặc, để hại dân hại nước. Lúc này là cơ hội cuối cùng để họ phản tỉnh và chuộc tội. Hãy trở về đồng hành với dân tộc, hãy chia tay với “16 chữ vàng gian xảo”, hãy ly khai với chế độ toàn trị để tạo thế mạnh “cứu nước” và để dân tộc có thể nhanh chóng hội nhập thế giới văn minh. Đây vừa là lẽ phải vừa là mệnh lệnh của thời đại. 

Nguyễn Cao Quyền
Tháng 6 năm 2014


Bối cảnh vì sao CSVN thần phục TQ

image
Sau khi “tổ quốc Liên Xô” của ông Lê Duẩn tan rã năm 1989, thì từ thời Nguyễn Văn Linh cho đến thời Lê Khả Phiêu, các tổng bí thư vẫn coi việc quy phục Trung Quốc là cách duy nhất để cứu vãn cơ đồ thống trị của đảng trên nước Việt Nam.
Nhưng lấy lý do nào để biện minh cho việc quay về thần phục Trung Quốc, sau khi đã bị quân đội Trung Cộng tấn công ở biên giới năm 1979 và ở Trường Sa năm 1988? Các ông tổng bí thư này phải nêu lý do cao siêu hơn quyền lợi. Họ giải thích hai nước “đồng chí anh em” là những thành trì cuối cùng bảo vệ thứ gọi là “chủ nghĩa xã hội!”.
Từ đó, Việt Cộng bắt đầu theo con đường lệ thuộc Trung Cộng. Cho nên, trong ngôn ngữ ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam, khi nào còn đề cao chủ nghĩa xã hội là còn chủ trương mối bang giao với Trung Cộng là trọng tâm chiến lược.

image
Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh là người có kinh nghiệm cá nhân đau đớn khiến chính bản thân ông coi việc quy phục Trung Cộng là điều không thể tránh được. Tháng 10 năm 1989, Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự quốc khánh Ðông Ðức, được chứng kiến cảnh giễu võ giương oai của “Cộng Hoà Dân Chủ Ðức” với các cuộc mít tinh hàng trăm ngàn người hô các khẩu hiệu chủ nghĩa cộng sản muôn năm đầy “hồ hởi phấn khởi.” Trong cuộc tiếp tân, Nguyễn Văn Linh được lãnh tụ cộng sản Ðông Ðức Honecker báo tin là chế độ Cộng Sản Ðức sẽ tồn tại vĩnh viễn mặc dù làn sóng người Ðông Ðức đang chạy ào ào qua Hung, Tiệp rồi qua Tây Ðức. Khi Nguyễn Văn Linh về tới Hà Nội thì bức tường Berlin bị sập, Honecker bị chính các đàn em lật đổ. Theo cuốn hồi ký Hồi Ức và Suy Nghĩ của Trần Quang Cơ, viết năm 2001, thì trong cuộc đại lễ ở Berlin, Linh cũng gặp lãnh tụ Rumani là Chủ Tịch Ceaucescu. Lãnh tụ tối cao cha già dân tộc Rumani và “anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới đang lâm nguy”.

Nhưng ngay sau đó, Linh nghe tin cả hai vợ chồng Ceaucescu bị các đàn em đảo chính và đem bắn. Những kinh nghiệm đó khiến Linh phải lo lắng cho số phận của chính mình và các lãnh tụ cộng sản Việt Nam khác. Phải tìm cách tự cứu!

image
Ông Trần Quang Cơ, thứ hai từ trái sang.
“Trước tình hình ấy”, Trần Quang Cơ viết, trong nội bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam “nổi lên một ý kiến… phải bằng mọi giá bắt tay ngay với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Xin nhấn mạnh những chữ “bằng mọi giá” và “ngay” lập tức. Cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ mô tả luận điểm của Nguyễn Văn Linh dùng để thuyết phục Bộ Chính Trị nên chịu thua Trung Cộng là: “Dù bành trướng thế nào, Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”. Linh đã nhấn mạnh lý luận trên khi Bộ Chính Trị thảo luận về kết quả cuộc gặp gỡ các lãnh tụ Trung Cộng ở Thành Ðô năm 1990, trong đó, Linh đã chấp nhận ngay phương cách giải quyết cuộc chiến ở Căm Pu Chia do Trung Cộng đề nghị, mặc dù Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch đã chống nên không được mời sang Tàu.

Trước đó, khi Liên Xô bắt đầu giảm bớt viện trợ kinh tế, mà các chính sách xã hội chủ nghĩa của Cộng Sản Việt Nam đã đưa quốc dân đến kiệt quệ, năm 1988 đảng đã đành nhẫn nhục, tự sửa cả điều lệ đảng lẫn Hiến Pháp, chịu xoá bỏ những câu ngu dốt viết trong thời Lê Duẩn, gọi tên “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, để xin hoà trước khi sang Thành Ðô, Nguyễn Văn Linh đã mời Ðại Sứ Trung Cộng Trương Ðức Duy tới, tự thú nhận là Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã sai lầm, đồng thời khoe công nay đã thay đổi: “Trong 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi lời nói đầu Hiến Pháp, có cái sai đang sửa.” Linh ngỏ ý muốn sang Tầu gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc để “bảo vệ chủ nghĩa xã hội”; vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội”. Lời nói của Nguyễn Văn Linh được Trần Quang Cơ thuật lại nguyên văn như sau:

image
“Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc… Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin…”. Lúc đó Nguyễn Văn Linh đóng vai người lãnh đạo cao nhất nước mà nhún mình nói, “các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay!” 

Không có cách nào “khiêm tốn” hơn!

image
Hội nghị thành đô năm 1990. 
Ba ngày trước khi Linh, Ðỗ Mười, Phạm Văn Ðồng lên đường sang Thành Ðô, Bộ Chính Trị họp ngày 30 tháng 8 năm 1990. Trần Quang Cơ kể:
“Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc…” Linh được Lê Ðức Anh ủng hộ, mặc dầu có những người không tin việc hợp tác với Trung Cộng có thể thực hiện được, như Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công. Sau cuộc họp Thành Ðô, khi các lãnh tụ cộng sản Việt Nam bay sang Cam Pu Chia giải thích phương cách giải quyết này với Hunsen, Lê Ðức Anh nói thêm cho rõ, “Mỹ muốn cơ hội này xoá bỏ cộng sản. Nó đang xoá ở Ðông Âu… Ta phải tìm đồng minh. Ðồng minh này là Trung Quốc”.

Qua những lời tường thuật trung thực của Trần Quang Cơ, một người tỏ ra rất trung thành với đảng và kính trọng Nguyễn Văn Linh, chúng ta thấy động cơ khiến Linh và tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã lựa chọn con đường hợp tác với Trung Cộng chỉ vì họ thấy hoàn toàn cô đơn, không còn biết nương tựa vào đâu để “bảo vệ chủ nghĩa xã hội.” Trong thực tế là bảo vệ quyền hành của họ. Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ sau này đều bị loại dần dần ra khỏi Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng Cộng Sản vì không “nhất trí!”

image
Nguyễn Văn Linh đã khởi xướng chủ trương quy phục Trung Cộng, có thể chỉ vì biết mình đã được lọt vào mắt xanh giới lãnh đạo cộng sản bên Tầu. Tháng 10 năm 1989, tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Lào là Kayson Phomvihan đã qua Bắc Kinh, được Ðặng Tiểu Bình tiếp đãi trong 70 phút, trong đó 60 phút là nói chuyện về Việt Nam. Qua Kayson, Ðặng Tiểu Bình đã “bắn tin” cho các lãnh tụ Hà Nội. Trần Quang Cơ viết:
“Trong khi không tiếc lời phê phán Lê Duẩn, Ðặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh. Ðặng kể lại khi làm tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1963 (Ðặng) đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh từ miền Nam (Việt Nam) sang Hồng Kông để đi Bắc Kinh gặp nhau, (Ðặng) khen Anh Linh là ‘người tốt, sáng suốt, có tài’; nhờ Kayson chuyển lời thăm anh Linh…”.

Không thể nói Nguyễn Văn Linh đã ngả theo Trung Cộng vì bị “ăn bánh phỉnh” của Ðặng Tiểu Bình. Bởi vì chính sách quy phục Trung Cộng không do một cá nhân quyết định là vì đa số các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam thời đó đồng ý. Vì họ không có chỗ tựa nào khác. Muốn dựa vào Trung Cộng, họ phải nêu một lý do cao cả hơn quyền lợi của nhóm thiểu số cầm quyền này, lý do cao cả đó là “bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Mặc dù không ai biết chủ nghĩa đó thực hiện thế nào, ngoài chế độ công an trị và hệ thống doanh nghiệp nhà nước!

image
Ðiều tội nghiệp cho Việt Cộng là Trung Cộng hoàn toàn thờ ơ với ý kiến hoàn toàn lý thuyết cao siêu đó. Họ chỉ nghĩ tới quyền lợi quốc gia của họ, và sẵn sàng đánh sau lưng Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Trung Cộng đã “mở bài” làm “lộ tẩy” những bí mật trong cuộc đàm phán về Cam Pu Chia giữa hai nước. Trần Quang Cơ kể: “Hiểm độc nhất là Trung Quốc đã thông báo khá rộng rãi với các nước những điều Nguyễn Văn Linh và Lê Ðức Anh nói riêng với Trương Ðức Duy” (đại sứ Trung Cộng ở Hà Nội). “Sáng ngày 26 tháng 6, 1990 đại sứ Cộng Hoà Liên Bang Ðức gặp Bộ Ngoại Giao ta, cho biết là ngày 22 tháng 6 Trung Quốc đã thông báo cho đại sứ các nước Liên Hiệp Âu Châu ở Bắc Kinh nội dung cuộc họp giữa Từ Ðôn Tín và tôi (Trần Quang Cơ) và đưa ra kết luận: ‘Việt Nam là những người rất xảo trá, rất xấu xa…’”

image
Một tháng sau cuộc họp ở Thành Ðô, Ngoại Trưởng Mỹ James Baker nói với các nhà báo rằng Trung Quốc tố cáo các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam nói rồi không giữ lời. Baker được Trung Cộng mớm cho, tuyên bố thẳng, “Không thể tin được ngay cả lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam”. Trần Quang Cơ thuật lại: “Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị… ‘Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội…’” mà giới lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đưa ra. Bắc Kinh nói một cách công khai, lại khuyến khích ngoại trưởng Mỹ nhắc lại, để làm mất mặt nhóm lãnh tụ ở Hà Nội. Nhưng nhóm lãnh tụ này vẫn cắn răng chịu đựng!

Trước những thủ đoạn xảo trá của Bắc Kinh như vậy, thật không thể hiểu được tại sao các Ðảng Cộng Sản Việt Nam vẫn bám lấy con đường hợp tác với Bắc Kinh để bảo vệ chủ nghĩa xã hội! Ðến thời Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, ông ta còn đi sang Tàu năn nỉ tái lập một tổ chức quốc tế cộng sản, với Việt Nam, Cuba, Bắc Hàn, mà Trung Cộng đứng lãnh đạo!
Có phải các lãnh tụ cộng sản bây giờ vẫn muốn trung thành với di sản chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh để lại, hay không?
Ðiều này khó tin. Vì tất cả các lãnh tụ trung ương đều đang lo vơ vét của cải cho vợ, con, gia đình. Họ chỉ lo bảo vệ những của cải đó chứ không thiết tha đến chủ nghĩa nào cả.

image
Vậy tai sao cuộc họp Trung Ương Ðảng Cộng Sản vừa qua vẫn nhấn mạnh đến khẩu hiệu “Tiến lên chủ nghĩa xã hội” trên “giai đoạn quá độ” dài dằng dặc không biết bao giờ tới bờ bên kia?
Vì khẩu hiệu đó cũng là một tín hiệu về ngoại giao. Hô khẩu hiệu đó là cho biết đảng vẫn tiếp tục chính sách của Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu: Vẫn tuyệt đối trung thành với các đồng chí Trung Quốc. Kể từ thời Nguyễn Văn Linh, bất cứ ai lên cầm quyền ở Hà Nội, đều phải được Bắc Kinh phê chuẩn. Trung Cộng không cho Nguyễn Cơ Thạch đi trong phái đoàn sang Thành Ðô năm 1990. Thế là sau đó Thạch bị rút ra khỏi Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng, suốt đời không còn ngóc lên được nữa. Trung Cộng mời Phó Thủ Tướng Vũ Khoan sang Bắc Kinh năm 2005, nhưng Khoan tới nơi bèn bị bỏ rơi giữa chợ, không cho gặp một nhân vật quan trọng nào cả. Thế là mọi người đều hiểu: Vũ Khoan không thể lên chức thủ tướng được, mặc dù đã có công vận động để ký thỏa ước thương mại song phương với Mỹ cho Việt Nam vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Vì thế Nguyễn Tấn Dũng, một phó thủ tướng khác, đã lên ngồi ghế thủ tướng cho tới bây giờ.

image
Nguyễn Cơ Thạch đang bắt tay Đại sứ William Sullivan. Người thứ hai từ trái sang là Lê Đức Thọ.
Chỉ khi nào Ðảng Cộng Sản Việt Nam chính thức từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê, đổi tên đảng, bỏ những chữ “xã hội chủ nghĩa” trong tên nước; khi nào dân Việt Nam được sống làm người Việt bình thường không theo chủ nghĩa nào cả, không bám lấy cường quốc nào để nhận làm anh em cả, thì lúc đó Việt Nam mới thực sự độc lập!

image



Đỗ Thị Minh Hạnh: Không cho phép mình được nghỉ ngơi .


SBTN SPECIAL: Việt Nam Ơi (Trúc Hồ)


Đỗ Thị Minh Hạnh - ...Tuy mới ra tù được ít hôm, tôi được biết thêm là Tổ Quốc Việt Nam đang lâm nguy, Trung Quốc đã lộ quá rõ dã tâm thôn tính Việt Nam. Từ người công nhân lao động cho đến các bậc trí thức, các doanh nhân, kể cả những đảng viên cộng sản... đang đứng trước nguy cơ mất nước, Dân tộc chúng ta đứng trước họa trở thành nô lệ của giặc Tàu. 

Tôi quá đỗi đau lòng và khát khao mong được góp một chút tinh thần nhỏ bé để đứng chung cùng quý ông bà, quý cô bác và các anh chị em đấu tranh giữ gìn từng tấc đất của quê hương mình...

*

Kính gửi: 

- Các vị dân biểu, đại diện các cơ quan ngoại giao và chính phủ các nước yêu chuộng tự do nhân quyền
- Các cơ quan truyền thông, các tổ chức, cá nhân ở trong lẫn ngoài ngước

Kính thưa quý ông bà, cô bác, anh chị và quý bạn bè gần xa, 

Tôi là Đỗ Thị Minh Hạnh, người vừa ra tù trước thời hạn hồi cuối tháng 6 vừa qua. Sau hơn 4 năm 4 tháng bị giam cầm, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc vì đã nhận được rất nhiều sự yêu thương và ủng hộ của quý vị.

So với những người bạn thân thiết như các bạn Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, cô Mai Thị Dung và hàng trăm tù nhân lương tâm khác tại Việt Nam, tôi luôn cảm thấy mình thật may mắn. Chính vì điều này mà tôi chưa bao giờ cho phép bản thân mình được nghỉ ngơi.

Qua bức thư này, tôi xin được gửi lời cám ơn chân thành từ trái tim đến tất cả các cá nhân và tổ chức đã luôn đồng hành cùng gia đình tôi trong nỗ lực đấu tranh đòi trả tự do cho tất các tù nhân lương tâm tại Việt Nam, và nhờ quý vị mà tôi được rời khỏi nhà tù sớm hơn hạn định. 

Trong thời gian ở tù, dù phải chịu cảnh bị đánh đập, bị làm nhục, bị biệt giam..., tôi vẫn luôn tin tưởng và khẳng định rằng tôi không có tội. Tương tự, các bạn Hùng, Chương và hàng trăm tù nhân lương tâm khác cũng hoàn toàn vô tội.

Tôi luôn xác quyết niềm tin và hành động của mình là vì công nhân, vì người nghèo, vì đất nước, vì tương lai Dân Tộc, vì lãnh thổ quê hương. 

Sự ủng hộ của những người yêu nước khắp nơi - cả trong lẫn ngoài nước đã trở thành ngọn lửa giúp tôi có thêm nghị lực vượt qua mọi thử thách vô cùng khắc nghiệt trong nhà tù. 

Tuy mới ra tù được ít hôm, tôi được biết thêm là Tổ Quốc Việt Nam đang lâm nguy, Trung Quốc đã lộ quá rõ dã tâm thôn tính Việt Nam. Từ người công nhân lao động cho đến các bậc trí thức, các doanh nhân, kể cả những đảng viên cộng sản... đang đứng trước nguy cơ mất nước, Dân tộc chúng ta đứng trước họa trở thành nô lệ của giặc Tàu. 

Tôi quá đỗi đau lòng và khát khao mong được góp một chút tinh thần nhỏ bé để đứng chung cùng quý ông bà, quý cô bác và các anh chị em đấu tranh giữ gìn từng tấc đất của quê hương mình.

Đồng thời, tôi vẫn mong muốn được tiếp tục đóng góp sức lực nhỏ bé của mình để cùng quý vị tranh đấu đòi trả tự do tất cả các tù nhân lương tâm còn đang bị giam giữ như: Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, nhà báo Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, nhà báoTạ Phong Tần, Luật sư Lê Quốc Quân, tín đồ PGHH Mai Thị Dung, tín đồ PGHH Nguyễn Văn Lía, cô Bùi Thị Minh Hằng, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, Nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa, nhạc sĩ Việt Khang, nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình, cô Hồ Thị Bích Khương, chị Lê Thị Phương Anh, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, chú  Nguyễn Văn Minh v.v,...

Cũng qua bức thư này, tôi tha thiết kêu gọi dư luận cùng lên tiếng yêu cầu chính phủ Việt Nam cần phải trả tự do ngay lập tức cho chị Mai Thị Dung. Hiện nay, bệnh tình chị Dung đang hết sức nguy kịch, phải chịu đựng sự đau đớn của thể xác từng giây, từng phút và cần mau chóng được tự do để điều trị kịp thời. 

Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn và gửi lời tri ân đến tất cả quý vị  đã luôn hỗ trợ cuộc đấu tranh đòi tự do, nhân quyền cho Việt Nam. 

Kính thư, 

Đỗ Thị Minh Hạnh





Bốn người tấn công lăng Ba Đình bị kết án nặng nề

Phiên tòa phúc thẩm 4 thanh niên tấn công lăng Ba Đình


Bà Nguyễn Thị Quỳnh, vợ ông Nguyễn Doãn Kiên tường thuật diễn biến phiên tòa phúc thẩm vụ tấn công lăng Ba Đình

CTV Danlambao - Bốn thanh niên tham giam gia vụ tấn công lăng Ba Đình tiếp tục bị nhà cầm quyền CSVN kết án nặng nề trong phiên tòa phúc thẩm diễn ra hôm 16/7/2014 vừa qua.

Các ông Nguyễn Doãn Kiên, Vũ Hồng Tố, Nguyễn Văn Kiệm bị kết án 5 năm tù giam, ông Trịnh Minh Khánh bị kết án 4 năm tù giam cùng với cáo buộc ''Gây rối trật tự công cộng'' theo Điều 245 Bộ Luật Hình sự.

Trước đó, tại phiên sơ thẩm được xử kín hồi cuối tháng 3, hội đồng xét xử kết luận ông Nguyễn Doãn Kiên giữ vai trò 'cầm đầu' nên đã tuyên án 6 năm tù giam. 

Cả 4 người bị bắt giam vào dịp tết nguyên đán 2014 sau khi bất ngờ tấn công vào lăng Ba Đình – nơi đang bảo quản thi hài của lãnh tụ đảng cộng sản Hồ Chí Minh. Hành động táo bạo và mang tính biểu tượng trên diễn ra đúng vào ngày 3/2/2014 – ngày đảng cộng sản kỷ niệm tròn 84 năm thành lập. 

Trao đổi với Danlambao sau khi kết thúc phiên tòa, bà Nguyễn Thị Quỳnh – vợ ông Nguyễn Doãn Kiên cho biết:

“Trong phòng xử, ngoài bốn vị gồm thẩm phán, viện kiểm sát, thư ký; ba vị luật sư; bốn bị cáo; tôi và mẹ tôi ra thì còn lại toàn công an và đặc vụ mặc thường phục.”

Thân nhân của các ông Vũ Hồng Tố, Nguyễn Văn Kiệm, Trịnh Minh Khánh đều không được vào bên trong tham dự phiên tòa, tất cả đều phải đứng ở bên ngoài.

Sau 5 tháng bị giam giữ, sức khỏe của ông Vũ Hồng Tố khi ra tòa rất yếu, không thể đứng được mà phải ngồi. Theo bà Quỳnh, trong cuộc thăm gặp cách đây 2 tháng, ông Nguyễn Doãn Kiên nói rằng tại phiên sơ thẩm trước, ông Tố và ông Kiệm đã tuyệt thực kéo dài suốt 2 tháng. Trạm xá của trại giam phải ép truyền nước.


Luật sư Hà Huy Sơn tham gia bào chữa cho ông Nguyễn Doãn Kiên tại phiên tòa phúc thẩm. Theo gia đình, luật sư Sơn đã thực hiện rất tốt vai trò bào chữa sự vô tội của ông Kiên, nhưng tất cả các lập luận đều bị hội đồng xét xử bác bỏ.

Đáng chú ý, trong phiên tòa có sự xuất hiện của hai luật sư đứng ra 'bào chữa' cho ông Trịnh Minh Khánh. Ngay từ đầu ông Khánh đã lên tiếng từ chối quyền bào chữa của hai luật sư này. Tuy nhiên chủ tọa phiên tòa vẫn để cho hai luật sư này trình bày quan điểm gây bất lợi cho thân chủ.

Trang facebook luật sư Hà Huy Sơn cho biết thêm:

“Tại phiên toà, các bị cáo cho rằng chủ thuyết đấu tranh giai cấp đã gây ra khổ nạn cho nhân loại. Tôi là luật sư cho Kiên, án phúc thẩm giảm được 1 năm, còn 3 người còn lại thì y án sơ thẩm. 

Khánh có 2 luật sư, nhưng ngay từ đầu phiên toà anh đã từ chối 2 vị này nhưng chủ toạ vẫn yêu cầu 2 luật sư tiếp tục làm người bào chữa cho Khánh. Tại phiên toà, Khánh cũng phản đối quan điểm của 2 vị luật sư này. 2 luật sư này đồng ý với đại diện VKS và bản án sơ thẩm và mong Khánh nhận tội. 

Tôi khâm phục lối sống Chân - Thiện- Nhẫn của 4 vị.”

Về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Quỳnh nói: 

“Hai luật sư yêu cầu thân chủ nhận tội. Ngay từ những phút đầu tiên của phiên tòa, anh Khánh đã phản đối và từ chối luật sư bào chữa cho mình.”

“Trong bản tuyên án cuối cùng tuyên án, hội đồng xét xử vẫn ghi vào quan điểm hai luật sư ấy trình bày là: 'đồng ý với viện kiểm sát và bản cáo trạng'. Tôi thất rất làm lạ về điều này”.

Được biết, cả 4 người đều không nhận tội và phản đối phiên tòa bất công. Facebook Đường Đời Sỏi Đá cho biết: “Lúc chuẩn bị tuyên án Nguyễn Doãn Kiên đứng ngay giữa phiên tòa đã hô to câu "Trời diệt ma giáo Cộng sản, Hồ Chí Minh là tên Đại Ma Đầu" và phản đối phiên tòa trù dập bất công, thẩm phán sẽ bị quả báo.”

Vợ chồng ông Kiên hiện đã có một cháu gái 4 tuổi. Trao đổi với Danlambao, bà Quỳnh hy vọng trong thời gian sắp tới, đất nước và xã hội sẽ có nhiều biến động, qua đó giúp cho chồng sớm được tự do.




Yêu cầu trả tự do cho bà Mai Thị Dung!


Fb Trần Huỳnh Duy Thức - Nhà hoạt động từ thiện và tôn giáo Mai Thị Dung, một nông dân cắt lúa, sinh năm 1969, đang tiếp tục bị hành hạ trong tù khi thụ án 11 năm sau 2 lần bị kết án.

Cùng chồng là ông Võ Văn Bửu, bà Mai Thị Dung - tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo - đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình, tuyệt thực cho các tín hữu đồng đạo, phản đối nhà cầm quyền CSVN tịch thu các cơ sở giáo hội và đàn áp tự do tôn giáo.

Bất chấp gia đình có hai người con dưới tuổi thành niên, ngày 5 tháng 8 năm 2005, công an Việt Nam bắt giữ cả hai vợ chồng Mai Thi Dung và Võ Văn Bửu. Ngày 19 tháng 9 năm 2005, Tòa án tỉnh An Giang kết án bà Mai Thị Dung 6 năm tù và chồng bà 7 năm vì tội "gây rối trật tự công cộng". Trước đó không lâu, ông Võ Văn Bửu vừa mãn hạn tù 3 năm cũng vì tội danh tương tự.

Trong tù, bà Mai Thị Dung kiên trì tổ chức các lễ Phật. Vì lẽ đó, ngày 22 tháng 7 năm 2008, nhà cầm quyền đã phạt thêm 5 năm tù về tội "chống đối nhân viên công lực", nâng tổng án tù mà bà Dung phải chịu lên 11 năm.

Suốt thời gian ở tù, mặc dù bệnh nặng, bà Mai Thị Dung luôn bị hành hạ, bị cấm nói chuyện với các tù nhân - bởi thái độ bất hợp tác với cai tù trong việc "ký biên bản nhận tội". Bà từng tuyệt thực trong tù để phản đối ngược đãi và yêu cầu được đưa đi điều trị. Chỉ một ngày sau khi bà tuyệt thực, hôm mùng 2 tháng 10 năm 2013, từ trại giam Xuân Lộc - Đồng Nai, bà bị chuyển ra Bắc cùng với một tù nhân lương tâm khác vừa được trả tự do là Đỗ thị Minh Hạnh trên quãng đường 1700 km với chân tay bị xích còng nên đã nhiều lần ngất xỉu trong xe thùng bịt kín.

Hiện bà đang bị giam tại Phân trại 3 Thanh Xuân, xã Mỹ Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội với tình trạng sức khỏe nguy kịch trong điều kiện tù khắc nghiệt. Bà mắc nhiều chứng bệnh tim, gan, mật, dạ dày, chỉ có thể di chuyển bằng cách bò lê trên nền sàn vì không thể đứng vững - theo những gì chồng bà chứng kiến trong lần thăm cuối năm 2013. Ông Võ Văn Bửu đã ra tù vào tháng 8 năm 2012, sau khi đã thi hành án 7 năm tù giam.

Nhà cầm quyền Việt Nam xem Phật Giáo Hòa Hảo là kẻ thù. Phần lớn các hoạt động của giáo hội phải thực hiện bí mật. Nếu không, luôn có đông đảo an ninh chìm nổi theo dõi, bao vây, phá rối để có cớ bắt bớ những người tham gia lễ lạc.

11 tháng 7 năm 2014

Vietnam Human Rights News
vietnamhumanrightsnews@gmail.com




Quan chức Đà Nẵng ra tay khiến một cụ bà 80 tuổi bất tính


Bà Nguyễn Thị Thọ đang được cấp cứu

Lãnh đạo Đà Nẵng hất ngã cụ bà Nguyễn Thị Thọ, dân oan Cồn Dầu

VRNs (18.07.2014) – Hà Nội – Sáng nay, ngày 17.07, tại văn phòng của Thanh tra Chính phủ – Hà Nội, ông Nguyễn Văn Toàn, chủ tịch phường Hòa Xuân – Đà Nẵng và ông Tuyền chánh thanh tra Tp Đà Nẵng đã hất ngã cụ bà Nguyễn Thị Thọ, một dân oan Cồn Dầu, bất tỉnh và phải đi cấp cứu ở bệnh viện đa khoa – Hà Đông – Hà Nội.

Cộng tác viên VRNs tường thuật lại sự việc như sau:

Sáng nay, bà con dân oan Cồn Dầu có cuộc họp với Đoàn công tác của Tp. Đà Nẵng với Đoàn thanh tra của Thanh tra chính phủ về việc khiếu kiện đất đai.

Trong cuộc họp này, Đoàn công tác của Tp. Đà Nẵng với Đoàn thanh tra của Thanh tra chính phủ kết luận, họ không thể giải quyết cho bà con Cồn Dầu về việc bố trí đất tái định cư tại chỗ. Bên phía Đoàn thanh tra của Thanh tra chính phủ đã cố né tránh vấn đề và khuyên nhủ bà con Cồn Dầu ra về và làm đơn khiếu nại lên Bộ Tài Nguyên Môi Trường. Còn Đoàn công tác T.p Đà Nẵng nhất quyết trả lời rằng, không thể bố trí đất tái định cư tại chỗ theo đúng nguyện vọng của bà con.

Những câu trả lời trên đã làm cho nhiều dân oan Cồn Dầu có mặt phẫn nộ và phản đối cách giải quyết thiếu trách nhiệm của nhà cầm quyền. Một số cụ già và phụ nữ quỳ gối van lạy các quan chức lãnh đạo, trong đó có bà cụ Nguyễn Thị Thọ. 

Lúc đó, một tay của cụ bà Thọ nắm lấy tay của ông Chủ tịch phường Hòa Xuân và tay còn lại của cụ thì nắm lấy tay ông Chánh thanh tra T.p Đà Nẵng, để van xin các ông ấy thương gia cảnh nghèo và vô gia cư như cụ, nhưng hai ông này đã vung tay và hất cụ té xuống đất. Ngay sau đó, cụ bà Thọ đã bất tỉnh nhưng hai ông lãnh đạo này vẫn làm ngơ và bỏ đi.

Bà con Dân oan Cồn Dầu hốt hoảng và gọi xe cấp cứu đưa cụ bà vào bệnh viện Đa Khoa – Hà Đông để cấp cứu.

Hiện tại sức khỏe bà cụ Thọ rất yếu.

Được biết, suốt mấy ngày qua, cụ bà Nguyễn Thị Thọ, 80 tuổi, cùng với bà con Dân oan Cồn Dầu đến Hà Nội, để khiếu kiện đất đai của giáo dân giáo xứ Cồn Dầu. Cụ và gia đình không còn nhà để ở, nên cụ vẫn lặn lội ra tận Hà Nội để kêu oan, mặc cho tuổi cao sức yếu.

Bà con giáo dân Cồn Dầu đã đi kêu oan suốt 7 năm qua nhưng các cấp có thẩm quyền vẫn không đoái hoài gì đến lời kêu cứu của bà con.

Pv.VRNs



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford!
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh!
Tưởng niệm tháng tư 75
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi
Tỷ lệ dân số độc thân Việt Nam và Đông Nam Á
Đất nước tiến lên đỉnh cao Mại Dâm chủ nghĩa, hoa hậu, hoa khôi giá cao, hoa hậu thế giới VN cao nhất 200 triệu đồng/phát
Nỗi nhục dân tộc do những công dân gương mẫu CSBV tức CHXHCNVN

     Đọc nhiều nhất 
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi [Đã đọc: 828 lần]
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin [Đã đọc: 475 lần]
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến [Đã đọc: 405 lần]
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế [Đã đọc: 367 lần]
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học [Đã đọc: 344 lần]
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt [Đã đọc: 341 lần]
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ [Đã đọc: 292 lần]
Tưởng niệm tháng tư 75 [Đã đọc: 282 lần]
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975 [Đã đọc: 250 lần]
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford! [Đã đọc: 245 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.