Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu
Hoặc:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần đến dâu!
Ðến như thơ tả cảnh thì đọc câu thơ lên thấy như vẽ trước mắt ta phong cảnh tác giả muốn phô diễn. Thí dụ:
Chim hôm thoi thót về rừng
Ðoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành
Hoặc:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Chỉ có một ngọn đèn khuya , chiếc áo nàng đang mặc đẫm nước mắt và mái tóc bù rối của nàng mà người đọc tưởng tượng ra được một thiếu phụ đang trải qua những đau thương , cay đắng của cuộc đời. Chỉ có 14 chữ mà nói lên được cái tâm sự dằng dặc cả mấy trang nếu phải viết bằng văn xuôi.
Hai câu sau tả cảnh cũng thế. Một buổi chiều hiu hắt, u buồn, chim lặng lẽ về tổ, đoá trà mi cô đơn dưới ánh trăng thượng tuần. Vẫn có hoa và trăng nhưng hoa và trăng nhuốm vẻ tiêu điều như lòng người. Cái buồn của nhân vật như lây sang ta, đó chính là truyền cảm.
Hai câu chót là bức tranh của Claude Monet hoặc của Vincent van Gogh đưa tầm mắt ta ra xa đến tận chân trời, toàn mầu xanh tươi, chỉ điểm vài cánh lê trắng muốt.
Thật tài tình. Và thật thơ.
Không chỉ trong những đọan tả cảnh, tả tình mà còn là những đoạn Mượn Cảnh Tả Tình, có nghĩa người đọc chỉ cần chú ý vào không gian, thời gian, sự vật xung quanh nhân vật mà thấy rõ được tâm sự nhân vật, cái rất khó tả cho đúng. Chúng ta hãy đọc lại đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” sau đây sẽ nhận ra điều đó:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng!
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày mong mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Nhớ người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một mầu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bình giải sơ lược: Sáu câu đầu tác giả tả nàng Kiều trong hoàn cảnh tồi tệ nhất là ở “thanh lâu” (thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần), Kiều bẽ bàng cho thân phận ngay cả khi ngắm áng mây buổi sớm, nhìn ngọn đèn leo lét ban tối. Cảnh ấy, tình này làm cho lòng nàng đòi đoạn, đứt ruột (như chia tấm lòng).
Bốn câu kế, Kiều nhớ đến Kim Trọng, người yêu đầu đời và trọn đời. Nhớ đến đêm trăng sáng năm xưa cùng chàng thề thốt, nay biệt vô âm tín mà tấm thân nhơ nhuốc này biết bao giờ gột rửa để trở nên trong sạch, xứng đáng với chàng?
Bốn câu kế:”Nhớ người tựa cửa...” Kiều nhớ cha mẹ. Không biết giờ này lấy ai thay mình phụng dưỡng song thân? Như ông Lão Lai ngày xưa, thấy cha mẹ buồn liền ra sân múa hát, làm trò hề cho cha mẹ vui cười lên mà khuây khoả tuổi già. Quay đi quay lại, ấy vậy mà cha mẹ trăm tuổi lúc nào không hay (có khi gốc tử đã vừa người ôm).
Tám câu sau cùng tả cảnh nhưng là cảnh có tâm hồn người hàm chứa trong đó: cửa bể, con thuyền, ngọn nước, hoa trôi, bèo dạt... trong khi tạo vật vẫn vô tình với nỗi buồn của con người:” Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Hoặc như trong “Cung Oán Ngâm khúc”:
Cầu Thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán Thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia, cỏ này!
Tuồng huyễn hoá đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!
Nơi bến đò xưa, cây cầu bắc trên dòng nước chảy không ngừng vẫn “trơ mặt với phong sương”, cũng như cạnh đó, quán trống, trong nắng chiều yếu ớt, gió thu lạnh lẽo hun hút thổi làm cảnh trí càng thêm tiêu sơ. Nàng cung nữ, vì nhớ đến thân phận hẩm hiu của mình, nhìn hoa cỏ, núi sông đều thấy một mầu tang thương. Tất cả do “Tạo hóa đành hanh quá ngán” bày ra và rốt cuộc kiếp người trôi nổi chỉ còn lại một nấm cỏ khâu xanh rì!
ÂM ĐIỆU, TIẾT TẤU
Nhiều nhà ngôn ngữ học quốc tế sau khi nghiên cứu về tiếng Việt đã cho rằng tiếng Việt khi nói có âm điệu như hát (singing language).
Sở dĩ có được kết luận đó vì tiếng Việt có các thanh bằng, trắc khác nhau nên khi nói, các từ ngữ lên xuống theo các thanh cho âm điệu và tiết tấu.
Thi sĩ tiếng Việt khi làm thơ lại càng cần phải để ý đến các thanh bằng trắc này để cho bài thơ có âm điệu tiết tấu hay, dễ đọc và quyến rũ. Chính bởi thế thơ có niêm luật, niêm là dính, luật là những chữ phải bằng hay phải trắc hay phải hợp vận.Thí dụ hai câu lục bát:
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng (vần)
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng (vần) trắc bằng
Thành Tây có cảnh Bích câu
Cỏ hoa họp lại một bầu xinh sao
Đua chen thu cúc, xuân đào
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông!
Những chữ 1,3,5 (nhất, tam, ngũ) bất luận, luật là bằng nhưng có thể trắc, và ngược lại.(Vì bài này không chủ trương dạy cách làm thơ, quí bạn đọc muốn nghiên cứu tường tận hơn về niêm, luật bằng trắc, vận có thể đọc trong sách Việt Nam Văn học sử yếu của GS Dương quảng Hàm hoặc các sách Văn học sử khác.).
Người làm thơ cần đặc biệt chú ý đến vần vì nếu thơ không có vần (hợp vận), sẽ không được gọi là thơ, sẽ chỉ như văn xuôi được cắt ra những đoạn 6 hoặc 7, 8 chữ v.v.... Có người đã ví một cách ngộ nghĩnh là thơ không vần như mặc quần không áo, nó thiếu phần quan trọng để thành những câu thơ như tác giả của nó mong muốn. Hơn nữa, vần dùng tài tình cho người đọc thơ thấy tài của tác giả mà không phải ai cũng có thể làm được. Những bài thơ nổi tiếng thường là những bài thơ vần được sử dụng chặt chẽ, khít khao và tài tình.
Thí dụ: Bản dịch “Lầu Hòang Hạc” của Tản Đà tiên sinh từ nguyên tác Hòang Hạc lâu của Thôi Hiệu:
Hạc vàng ai cỡi đi đâu
Mà nay Hòang Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hòang hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Thơ tự do không bắt buộc phải có vần nhưng cũng cần vần khi có thể để cho câu thơ nổi nang hơn, có chất thơ hơn. Còn thơ mới, vần chữ cuối câu hay cước vận, bắt buộc phải có vận, hợp vận
Thí dụ:
Nào còn đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những chiều mưa chuyển động bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới.
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng...
(Hổ nhớ rừng - Thế Lữ)
Hoặc một đọan đầu trong bài “Nắng Quê Hương” của tác giả bài này:
Em sang đây mang giùm anh chút nắng
Nắng Sàigòn - Hànội - Nắng Quê Hương
Nắng ngày xưa em nhặt ở sân trường
Đem hong gió Thu vàng hay ép sách.
TÓM TẮT
Một bài Thơ hay phải hội đủ ba yếu tố: Lời hay, Ý đẹp, và Truyền cảm. Có cả ba yếu tố thiết yếu này, người ta gọi tắt là một bài thơ hay, một bài thơ có hồn. Khi thi sĩ cảm hứng, tứ thơ tuôn tràn, hồn thơ lai láng. Chính kẻ viết bài này, có nhiều lần bút không kịp ghi tứ thơ trên giấy, phải dùng những chữ viết tắt mà chính tác giả mới đọc được, ghi vội ra vì nếu để giây phút đó qua đi, sẽ không thể hoặc khó có thể làm được bài đã định. Sau giây phút “xuất thần” đó, bây giờ mới thong thả coi lại bài thơ từ đầu tới cuối và chỉnh những từ không vừa ý. Thường chỉ chỉnh sơ sài, dăm ba từ bị thay thế cho thích hợp, nhưng cái cốt lõi đầu tiên, cái khung, cái hồn của bài thơ thì không bao giờ thay đổi, bởi nó đã hay hoặc vừa ý (với chính nhà thơ.)
Thi sĩ phải có hứng sáng tác, thơ mới hay. Hứng là cái sáo diều hoặc sợi dây đàn treo trong không gian, một làn gió nhẹ thổi qua đủ làm nó phát ra thanh âm. Tâm hồn thi sĩ cũng ví như cái sáo hoặc sợi dây đàn đó, một ý tưởng mới, một cảm nghĩ mới, một sự việc mới xảy ra trước mắt khiến nhà thơ muốn dùng bút ghi lại sự việc hoặc những cảm nghỉ của mình trong khi người không có tâm hồn thi sĩ, không để ý tới sự việc xảy ra, cũng không có những cảm nghĩ mà nhà thơ có. Ðó chính là “Cái sáo hoặc sợi dây đàn” của thi sĩ. Nó vô cùng bén nhạy nên thi sĩ mới có hứng thơ. Với nhà văn, hứng viết văn cũng tương tự thế. Do đó, chúng ta phân biệt hai loại, nếu ghi thường: văn xuôi; nếu ghi có vần điệu tiết tấu: Thơ. Cả hai đều là văn chương, tuy co những nét đặc thù khác hẳn nhau.
Ðể làm rõ nét cái hứng của thi nhân, chúng tôi xin đưa ra trường hợp Thi sĩ Ôn như hầu Nguyễn gia Thiều.
Tất cả chúng ta nhìn các cung nữ thời xưa, lúc son trẻ được nhà vua vời vào cung làm cung phi đều là chuyện bình thường bởi vua có quyền sinh sát toàn dân. Vua muốn là Trời muốn vì vua là Thiên tử, con Trời. Riêng tác giả “Cung oán ngâm khúc” lại có cái nhìn khác. Thi nhân nghĩ chỉ vì phải phục vụ cho những sắc dục tham lam, bất chính của nhà vua mà các cung nữ này bị giam trong cung cấm, uổng phí cả một đời thanh xuân khi nhà vua chỉ dùng các nàng cho một đêm vui rồi không bao giờ đoái hoài tới nữa làm nhiều cung phi chết già trong cung cấm. Nhà vua, sau khi thoả mãn, ân ái một đêm, lại đi tìm những bông hoa hương sắc khác để tủi hổ, bẽ bàng, đau khổ cho hàng trăm, hàng ngàn cung phi mà họ không biết kêu cứu vào đâu được.(Ngán thay cái én ba nghìn). Từ đó thi nhân viết cuốn “Cung oán ngâm khúc” để thay cho các cung phi nói lên nỗi lòng đòi đoạn nơi cung cấm, may ra tiếng nói có thấu đến cửu trùng, các nàng được giải thoát khỏi cuộc sống tối tăm, chết dần, chết mòn, được trở về nơi thôn dã sống với gia đình và biết đâu lại có được một tấm chồng để nương tựa suốt cuộc đời còn lại.
Vì đặt mình vào hoàn cảnh các cung phi bị thất sủng, thi nhân đã cực tả được những đau xót của các cung phi:
Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào...
Trở lại ý hướng mượn cảnh tả tình của thi nhân, chúng ta hãy đọc lại hai bài thơ (Đường luật) sau đây, của Bà huyện Thanh Quan và Cụ Nguyễn Khuyến:
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn !
THU ÐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai bài thơ này cùng làm theo thể Ðường luật, thơ bảy chữ tám câu, rất phổ thông từ đầu thế kỷ thứ XIX. Nữ sĩ Hồ xuân Hương cũng là một trong những nhà thơ sử dụng thể thơ này nhiều nhất.
Bài “Chiều hôm nhớ nhà” có dăm tiếng Hán -Việt như: hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, mục tử, chương đài, lữ thứ nhưng không phải là những chữ quá khó. Sáu câu đầu tả cảnh để làm nền cho hai câu cuối tả tình. Bạn để ý cặp câu:”Gác mái... và Gõ sừng...”; cặp “Ngàn mai... và Dặm liễu...”, (động tự đối với động tự, danh tự đối với danh tự) làm theo thể biền ngẫu nghĩa là mỗi chữ đối nhau, nét đặc thù của thơ Ðường luật. Ðọc xong bài thơ ta thấy tâm hồn ta cũng chìm lắng vào nỗi buồn của “kẻ chốn chương đài, người lữ thứ” một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía của hai tâm hồn xa nhau.
Như bài Thu Ðiếu, hay Mùa Thu câu cá, cặp câu “thực” và “luận”: “Sóng biếc...” đối với “Lá vàng...” và “Từng mây...” đối với “Ngõ trúc...”.Toàn bài không có một chữ Hán, một điển cố, vẽ ra bức tranh thu êm đềm, tịch mịch trong đó chỉ có một động vật duy nhất là nhà thơ đang thả hồn vào thiên nhiên với lá vàng rơi rụng, với từng mây xanh ngắt, với ngõ trúc quanh co. Tất cả đã toát ra mùi vị Thiền và bức tranh:” Vạn vật đồng nhất thể” vô cùng sâu sắc.
Hai bài thơ trên, cùng một số bài thơ khác của hai tác giả này và nhiều tác giả khác như Nguyễn công Trứ, Cao bá Quát, Hồ xuân Hương v.v…đã được đa số chúng ta học thuộc lòng từ hồi còn ngồi lớp 8, lớp 9 trong phần Cổ văn.
Tuy nhiên, vì thơ Đường luật phải tuân theo niêm, luật, vần và biền ngẫu như thế nên từ thế hệ 1932, các nhà thơ đã than là thể thơ này quá khó so với những thể thơ lục bát, song thất lục bát, nhất là thơ mới và thơ tự do ra đời trong khỏang thời gian đó. Các cụ nói:” Khó cho thiên hạ đến bao giờ...” để nói về thể thơ Đường luật này. Hơn nữa, khi phải diễn tả một tình cảm phức tạp, dài dòng thơ Đường không đáp ứng nổi như song thất lục bát và lục bát.Và cũng kể từ đó, các thể thơ tự do, thơ mới 8, 9 chữ hay thơ 7 chữ, mỗi đọan bốn câu, gồm nhiều đọan, vần cuối ở các câu 1, 2, và 4 rất được thịnh hành. Thể thơ Đường chỉ còn thấy thưa thớt nơi các cụ đồ nặng lòng với thơ cổ khi xưa và những tác giả không thích thơ mới. Cũng nên lưu ý, thơ mới có âm điệu, tiết tấu và cách diễn tả hùng mạnh mà thơ Đường không thể. Thơ tự do cho người làm thơ diễn đạt ý tưởng không giới hạn nhưng cũng không phải dễ để sáng tác một bài thơ tự do hay.
Để có một cái nhìn xuyên suốt về Thơ, nguyên tắc chung cho hầu hết các môn khoa học là: hợp lý = dễ hiểu = dễ nhớ, dù là toán học hay nhân văn. Từ những bài thơ cổ này, chúng ta cũng suy ra, để hiểu thơ cũng như để sáng tác thơ, chúng ta cần một ít chữ Hán-Việt, hiểu nghĩa và cách sử dụng chúng mới dễ quay trở khi làm thơ.
A-THƠ HAY RẤT DỄ THUỘC DỄ NHỚ
Từ đó ta thấy, thơ hay là thơ có thể học thuộc lòng một cách dễ dàng. Một học sinh có trí nhớ trung bình chỉ cần ngâm nga hai bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến và bà huyện Thanh Quan nói ở trên vài lần là thuộc lòng. Thơ đọc trúc trắc, khó hiểu, vô nghĩa, không dễ dàng học thuộc, chắc chắn không phải thơ hay. Cũng nên lưu ý, thơ đọc trúc trắc chính vì tác giả của nó không am tường luật bằng trắc hoặc không sử dụng đúng qui luật bằng, trắc và vần.
Ðể kiểm chứng điều này, quí bạn đọc thử nhớ tên một nhà thơ, ông A, bà B v.v…cố nhớ lấy một bài thơ hay vài câu thơ của họ mà quí vị đã đọc, xem có thuộc được bài nào không, câu nào không. Không có, ấy là thơ ra sao quí vị đã biết. Nhưng có nhiều tác giả thời nay lại nghĩ cứ làm thơ khó hiểu, tối nghĩa hay vô nghĩa, cao kỳ, dùng những từ cho kêu là được quần chúng ái mộ. Sự thực không phải thế. Thơ kêu nhưng rỗng thì không khác một cái thùng phuy, càng rỗng càng kêu to.
Trước đây, rất nhiều người, ngay cả ở nông thôn Việt nam, đã học thuộc lòng Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên, Nhị Ðộ Mai, Cung oán ngâm khúc, Tì bà hành, Trinh thử, Trê cóc, Ngư tiều vấn đáp, Lục súc tranh công, Bích câu kỳ ngô v.v…lúc rảnh rang, đọc vanh vách cho nhau nghe dù có nhiều người không có sách hoặc không biết chữ, chỉ học lóm bạn bè. Sở dĩ họ thích, họ say mê vì lời Thơ gần gũi với họ, tả cái tâm lý chung của họ hay người xung quanh họ như Jacques Prévert, một Thi sĩ Pháp có viết:” Ðọc Thơ lại thấy có mình ở trong” cũng là ý nghĩa đó. Người nông dân học thuộc lòng dễ dàng như vậy vì những câu Thơ này giản dị, dễ hiểu, hợp lý, vần vò. Chính bởi thế, nguời ta còn gọi Thơ là văn vần để phân biệt với văn xuôi.
Trước 4-1975, ở miền Nam Việt Nam, có một số tác giả làm Thơ đăng trên các báo, tạp chí, nguyệt san, cả những nguyệt san được coi là thời thượng, nổi tiếng lúc đó mà nguời viết không tiện hài tên, bạn bè những tác giả này cũng ca tụng họ hết mình như hàng thi bá (một nhược điểm của giới làm Văn học Nghệ thuật cận và hiện đại, hay dở gì khen bừa); nhưng bây giờ hỏi còn ai nhớ được một bài Thơ của họ hoặc ít nhất là tinh thần những bài thơ đó không ? Chúng nói lên cái gì? Chúng ca tụng hay đả phá cái gì? Ðủ biết Thơ phải gần gũi với dân gian mới có thể tồn tại với thời gian. Thơ xa rời thực tế là chỉ để trang điểm nhất thời, dù Thơ bác học (Hán văn), cao xa đi nữa.
B-PHẢI GÂY ÐƯỢC SỰ XÚC ÐỘNG
Thơ là văn xuôi đã gạn lọc, cô đọng lấy phần tinh tuý sâu sắc của văn chương nên Thơ phải súc tích và truyền cảm nghĩa là gây được sự xúc động, xao xuyến từ tác giả sang người đọc.
Người đọc phải có được sự rung động của tác giả , dù cường độ kém hơn, mới được gọi là thơ hay. Thơ đọc lên trơ trơ trích trích, không chuyển động được một “thớ thịt đường gân” nào của người đọc, đó là Thơ kém giá trị. Ngưòi ta đọc Chinh phụ ngâm mà tưởng rằng mình là người chinh phụ, có chồng sắp ra ngoài quan ải đánh giặc, giữ nước. Người ta đọc Cung Oán mà cứ ngỡ mình là người cung phi bị thất sủng, nhà vua không đoái hoài tới.
Ðó là sự thành công của tác giả.
C-THƠ PHẢI NÓI LÊN MỌI KHÍA CẠNH CỦA ÐỜI SỐNG
Ðành rằng Thơ tình ái là loại Thơ nhiều người làm, nhiều người đọc nhất và cũng dễ làm hơn nhiều loại khác, nhưng một tác giả cả đời chỉ viết được những bài thơ tình ái hoặc ca tụng đàn bà như nhà thơ Ðinh Hùng là một (Ðường vào Tình sử, chính ông thú nhận), thì chưa thể gọi được là đã quán xuyến về Thơ.
Hầu hết những bài Thơ hay của những tác giả như Nguyễn bỉnh Khiêm, Nguyễn công Trứ, Trần tế Xương, Cao bá Quát, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, Tản Ðà, Nguyễn Trãi v.v…đều là Thơ về Thiền, Thơ yếm thế, luận bàn thế sự, nhân tình thế thái, Thơ đạo lý, triết lý cuộc đời, thơ nhàn v.v… mà rất ít hoặc không có Thơ tình.
Nguyễn Du tả Kiều trong thanh lâu, Kiều tiếp khách, Kiều tắm… vì Kim Vân Kiều là một cuốn tiểu thuyết Nguyễn Du phỏng theo cốt truyện của một tác giả Trung hoa (Thanh Tâm tài nhân) trước tác ra và đặt tên là Ðoạn trường Tân Thanh. Là tiểu thuyết, vả lại trung thành với nguyên tác, Ðoạn trường Tân Thanh cần phải có đủ tình tiết, hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, người đọc mới thấy hết được những khiá cạnh của nhân vật chính trong truyện. Chứ không phải ông có ý tả chân để khiêu dâm như một số người đã gán cho ông (Huỳnh thúc Kháng, Ngô đức Kế: ai, dâm, sầu oán, đạo, dục, tăng, bi) hay như Nguyễn công Trứ: “Bán mình trong mấy mươi năm, Ðố đem chữ hiếu mà lầm được ai.”)
Quan niệm coi Kim Vân Kiều là một cuốn tiểu thuyết dâm ô đã quá lỗi thời. Trái lại người ta có thể tìm trong đó những vần thơ bất hủ được lưu truyền mãi mãi. Chúng ta chỉ nên coi Kiều là một tác phẩm văn chương mà thôi. Càng không nên đưa Kiều ra làm mẫu mực về đạo đức, luân lý (như có tác giả đã làm) mặc dù nhân vật Kiều rất nhân bản, chứa đựng đầy đủ tâm lý của con người bình thường.
Theo thiển ý, chỉ có một điều tiếc: Nguyễn Du không sáng tác mà nhờ vào một cốt truyện Tàu, dĩ nhiên thuộc thời đại vua Tàu, nhân vật Tàu, phong tục, văn hóa Tàu..., tuy cũng tương cận với chúng ta nhưng không thể bằng tất cả đều là Việt Nam.
D-CUỘC ÐỜI: ÐỀ TÀI VÔ TẬN CHO THI NHÂN
Cõi nhân sinh này còn rất nhiều điều cần đến nhà thơ, nhà văn ghé mắt đến. Nào là tôn giáo, gia đình, xã hội, đất nước, quê hương, dân tộc, tự do, dân chủ, bình đẳng, nào là công bằng, bác ái, vị tha, hi sinh cứu giúp kẻ khốn cùng… Ngay như thiên nhiên, cây cỏ, thú vật, chim muông, gia cầm, gia súc cũng là những đề tài vô tận.
Học giả Phạm Quỳnh trong báo Nam Phong xuất bản năm 1921 có viết:”...Làm một bộ tiểu thuyết, cốt là đặt cho hay, viết cho khéo, cho người đọc có hứng thú, ...có lẽ ở những nước văn minh có thể nghĩ như thế được; nhưng ở những dân còn bán khai như dân ta thời văn chương rất là quan hệ cho đời lắm, nhà làm văn có cái trách nhiệm duy trì cho xã hội, dìu dắt cho quốc dân, nếu làm sai trách nhiệm ấy thời dẫu văn chương hay đến đâu cũng có tội với quốc gia, với danh giáo vậy. Các nhà tiểu thuyết ta há không nên cẩn thận lắm ru?” (Hết trích)
Tác giả Tô Hoài thời tiền chiến chỉ tả mấy con dế mèn phiêu lưu mà cũng được học sinh đua nhau đọc, nổi tiếng một thời. Vậy không phải chỉ Thơ tình ái mới ăn khách. Yêu đương, nhớ nhung, dang dở, chia phôi …chỉ bấy nhiêu, không phải lúc nào độc giả cũng “tiêu hoá “được. Viết lắm sẽ nhàm. Cứ một loại Thơ đó chỉ chứng tỏ tác giả không thể viết và nghĩ đa dạng mà thôi. Có nghĩa là tác giả không đủ tài. Mà cuộc đời hiện đại lại quá đa dạng, đa phương. Sự biến hoá của cuộc đời làm ta chóng mặt. Một vị Tổng Thống Mỹ, ông Franklin Roosevelt bảo với mọi người, trước khi ông đọc diễn văn trước quốc dân:” Vỗ tay nhiều không có nghĩa là diễn văn hay” Ta cũng có thể lấy câu đó áp dụng cho một số tác giả trước đây ở miền Nam và ngày nay ở hải ngoại, thơ, văn rất nghèo nàn nhưng bè bạn, theo cái mốt, dùng ống đu đủ thổi phồng và vỗ tay quá lố. Và đó cũng là lý do làm mất niềm tin của đa số độc giả có trình độ.
Đ-LÀM THƠ PHẢI TUÂN THEO NIÊM LUẬT, BẰNG TRẮC
Ngoại trừ Thơ tự do, không cần vần, không niêm luật bằng trắc, không giới hạn số câu, số chữ trong câu (Xin đọc bài Thương tiếc Columbia của người viết bài này), còn các thể thơ khác như lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn (Ðường luật), Thơ Mới … đều phải theo luật Thơ (vần, bằng trắc) Thơ mới hay. Vần dùng gượng ép, mất hay một phần. Chữ đúng ra phải vần mà không vần, không hay.
Ngoài ra, cũng để nhắc lại, cách dùng chữ, gieo vần thật quan trọng. Có nhiều từ kép, cụm từ có thể dùng xuôi ngược sao cũng cùng nghĩa. TD: đớn đau hay đau đớn, trôi nổi hay nổi trôi, phiền muộn hay muộn phiền, nghĩa đều như nhau. Nhưng không thể viết xa xót thay vì xót xa, loài lạc thay vì lạc loài, nhiên tự thay vì tự nhiên v.v... Những chữ bị đảo ngược như vậy hoặc có nghĩa khác hoặc vô nghĩa. Cần nhất là tránh làm Thơ vô nghĩa hoặc tối nghĩa dù đọc lên đầy hán tự có vẻ bác học.
E-Ý QUAN TRỌNG HƠN LỜI
Ðiều chót, dù còn nhiều điều chưa nói do giới hạn của bài này. Nếu ta không thể thoả mãn được cả hai phương diện hiệp vận (vần) và ý thì nên dùng chữ nào cho rõ ý còn hơn là dùng chữ hiệp được vần mà ý sai lạc hoặc vô nghĩa. TD: Bốn câu của cụ Yên Ðổ.
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo
Có khi từng gác cheo leo
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang
Tất cả đều hiệp vận ngoại trừ “leo” và “chiều”. Tuy nhiên, “chiều” mới đúng nghĩa. Nếu dùng “chèo” thì hiệp vận nhưng sai nghĩa.
Thí dụ khác: Bốn câu Thơ dịch của người viết bài này:
Xuân sang ngoạn cảnh xem hoa
Hè về hóng mát tà tà ao sen
Vào Thu rượu cúc êm êm
Ðông coi tuyết phủ, nối vần Nàng Thơ (TÐN)
Tất cả đều hiệp vận, ngoại trừ “êm” và “vần” , nhưng đúng ý nghĩa. Giả sử thay hai chữ “nối vần” bằng hai chữ “êm đềm” cho vần với câu trên thì trước nhất bị điệp ngữ êm, thứ hai “êm đềm Nàng Thơ” lại có nghĩa khác, không nói được cái thú ngâm Thơ, sáng tác Thơ của tác giả. (Ðông ngâm bạch tuyết thi). Bài thơ trên dịch từ bài thơ chữ Hán:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Ðông ngâm bạch tuyết thi
Ý nghĩa của một câu Thơ, một bài Thơ là quan trọng như vậy.
Một bài Thơ hay, một câu Thơ hay rất dễ nhìn ra y như một bông hoa đẹp. Ðâu cần phải phân tích cánh hoa làm sao, đài hoa, sắc hoa thế nào, ta mới biết là bông hoa đẹp.
Tiền nhân xưa sáng tác Thơ, vào hội Thơ, ngâm Thơ như một cái thú của đời người, nhất là khi về già. Không gì bằng có bạn Thơ, có giấy bút, có rượu, dù chỉ thanh đạm, cùng làm Thơ, cùng bàn luận về văn chương, về những hào khí của người xưa. Tổ tiên ta dùng Thơ để nói về mình, về người, dạy đời, mỉa mai những thói rởm của đời, tôn vinh những thú vui thanh quí, cao nhã “an bần lạc đạo” mà Thơ chính là một dụng cụ sắc bén và đắc dụng nhất cho các mục tiêu đó. Ta thử đọc lại một bài thơ của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
THƠ NHÀN
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!
Bài sau đây của thi hào Tản Ðà Nguyễn khắc Hiếu, làm cho vở chèo Thiên thai. Ðây là cảnh hai tiên nữ tiễn Lưu Thần, Nguyễn Triệu về trần:
TỐNG BIỆT
Lá đào rơi rằc lối Thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Ðá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động,
Ðầu non,
Ðường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!
Dù là một huyền thoại, người đọc Thơ không khỏi bùi ngùi cho cuộc chia tay giữa người tiên, kẻ tục sau một thời gian ngắn chung sống. Chữ dùng rất thanh thoát thích hợp với cảnh tiên: lá đào, Thiên thai, đá mòn, rêu nhạt... cái hạc, cửa động, đầu non ... và kết thúc bằng ánh trăng mơ hồ huyền ảo muôn đời soi bóng. Một bài Thơ tuyệt đẹp. Từ đó chúng ta suy ra Thơ là thơ thẩn, là mơ hồ, đôi khi xa rời thực tế. Như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây...
Thơ là kết tụ của tình yêu, tình yêu nam nữ, vợ chồng, tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người. Thơ là tự do, phóng khoáng, là sắc sắc không không của nhà Phật, là Vô vi, Thiền quán như Lão tử thực hành và đôi khi cũng cần phải yếm thế, chán cái đời sống đầy tục lụy này như Cao bá Quát, hay châm biếm những thói rởm, tật xấu của người đời như Trần tế Xương... Thơ thực quá, thô sơ quá, thơ không hay, không thoát. Nhiều bài không thể gọi được là Thơ mà chỉ là những bài vè dân quê truyền tụng ở nông thôn. Thơ lục bát tuy vậy rất khó làm, dễ trở thành bài vè ít giá trị. Làm được Thơ lục bát như truyện Kiều là một tuyệt tác.
Có nhiều bạn đọc viết thư cho người viết hỏi họ có thể sáng tác Thơ, có thể thành nhà thơ được không? Tiện đây, xin trả lời chung như thế này:
Ai cũng có thể sáng tác và trở thành thi sĩ, nếu:
Yêu thơ, đọc nhiều thơ, học thuộc thơ kiểu mẫu, thơ hay, chất Thơ ngấm vào trí óc giống như chất bổ ngấm vào thân thể, chúng giúp cho nhà thơ rất nhiều. Tuy vậy xưa kia đã có những người thuộc lòng cả cuốn truyện Kiều, cả cuốn Nhị độ Mai hay Bích câu kỳ ngộ nhưng vẫn không thể sáng tác Thơ.
Có thiên khiếu về Thơ. Có sự rung cảm, xúc động sâu xa như sợi dây đàn hoặc cái sáo trong không gian như đã nói ở trên.
Có vốn liếng nhiều về từ ngữ để sử dụng khi cần diễn dịch một ý tưởng thành lời nói, chữ viết, nhất là thành Thơ. Thơ tiếng Việt rất cần danh từ Hán - Việt.
Nắm vững các niêm, luật (bằng, trắc, vần) và các thể Thơ. Dùng chúng như những cái chìa khóa dẫn đường vào việc sáng tác Thơ.
Tuân theo các niêm, luật đó ngoại trừ Thơ tự do. Tuy nhiên, dù là Thơ tự do, nó vẫn không phải văn xuôi, vẫn cần một sự sắp xếp ý, lời và vẫn cần vần khi có thể cho câu thơ nhịp nhàng, cân đối.
Ðể bạn đọc hiểu thêm, xin nói như thế này. Có những nhà văn viết văn khá hay, nổi tiếng nhưng chính những nhà văn đó nói họ không thể sáng tác Thơ mặc dù chữ nghĩa đầy đầu.
Ngược lại, có những thi sĩ không thể viết truyện, viết bình luận, nghĩa là văn xuôi.
Bởi như đã nói, tuy cùng là văn chương nhưng chúng hoàn toàn khác biệt về phương diện sáng tác. Lại cũng khác biệt về phương diện thưởng thức. Cũng cần nói thêm, khi đã không có trình độ thưởng thức thì bài nào cũng như bài nào, vàng thau lẫn lộn, bị đánh giá như nhau. Trình độ thưởng thức chính là những kiến thức thu thập được trong lãnh vực Thơ, nó chính là những bước căn bản đầu tiên đưa đến sự sáng tác Thơ nếu có hứng sáng tác.
Luận bàn về Thơ, chục pho sách cũng không đủ nói hết. Ðể kết thúc bài mạn đàm thiếu sót về Thơ này, xin mời quí bạn đọc một bài Thơ lục bát của tác giả bài này, bài “Chiều Ba Mươi”, thơ vui Tết và bài “Nói với Bút” cả hai đã đăng trên nhiều báo từ năm 1978 và 1992. Bài sau tác giả mượn cây bút để nói lên nỗi lòng của mình.
CHIỀU BA MƯƠI
Vòng tay nhật nguyệt luân hồi
Đem Xuân trở lại nét môi diễm kiều
Lược gương từ giã cô liêu
Nâng niu mái tóc đây chiều ba mươi
Trẻ thơ tươi tắn nụ cười
Ðầu xanh, đầu bạc người người vui lây
Gió ngoài song, lạnh hiên tây
Chiều Xuân thi hứng lúc đầy, lúc vơi
Trong bình đào thắm, mai tươi
Nhìn em muốn hỏi Xuân cười lúc nao?
Giang tay bồng nhẹ Xuân vào
Môi son má phấn: Mai, Ðào hay em?
NÓI VỚI BÚT
Bút ơi ! Yêu bút thiết tha
Bút theo ta chạy ta bà khắp nơi
Mùa Xuân rừng núi rong chơi
Miền quê, thành thị khắp nơi ra vào
Hạ về bút lắm xôn xao
Biển giông bão nổi ào ào chớm Thu
Mùa Ðông bút có sương mù
Có đôi chim gáy gật gù sớm mai
Ðường đời lắm nẻo chông gai
Bút cùng ta luận một vài điều hay
Cường quyền bút chẳng run tay
Bút mong Dân tộc những ngày sáng tươi
Chán đời vẫn hé môi cười
Ta cùng với bút một đời bên nhau
Vì ta bút trải tình sâu
Vì ta nên bút giãi dầu nắng mưa
Lòng ta bút hiểu hay chưa ?
Thơ là tuyệt đỉnh, tuyệt đích của văn chương. Sáng tác Thơ khó khăn hơn chơi Lan, chơi Bonsai, đánh cờ tướng, uống trà v.v... vì nghề Thơ cũng lắm công phu, không phải chỉ thích Thơ rồi nhảy vào làm Thơ mà Thơ hay được. Tuy nhiên, nếu đã có hồn Thơ tức dễ xúc động trước những biến đổi, nghịch cảnh của cuộc đời, rồi trau dồi kĩ năng về Thơ, làm nhiều bài Thơ, nghe ý kiến trung thực của bạn đọc và thân hữu, nhất là những người sành Thơ thì việc sáng tác Thơ cũng tiến bộ vậy.
California, ngày 8 tháng 11 năm 2007
Các bạn trẻ quí mến,
Sau khi đọc bài:” Thế nào là một bài thơ hay” nhiều bạn trẻ đã gửi thư cho tôi nêu ra nhiều câu hỏi. Trong những câu hỏi đó, có những thắc mắc sau đây:
- Cho thí dụ về một câu thơ và một câu văn vô nghĩa.
- Muốn làm thơ, trước hết phải học cái gì?
- Những điều phải tránh khi làm thơ.
- Làm thế nào để định giá trị một bài thơ cho đúng?
- Cá nhân Nhà thơ đã làm khoảng bao nhiêu bài thơ?
- Nhà Văn Xuân Vũ viết “Đường đi không đến” trùng bút danh với Nhà Văn Trần Đình Ngọc sao?
Đây là những câu hỏi rất hay.
Tôi xin lần lượt trả lời những vấn nạn trên.
1- THƠ, VĂN VÔ NGHĨA
Đã một thời, người ta đua nhau làm Thơ vô nghĩa nhưng sau đó, vì bị chỉ trích nhiều và cũng bởi ít người đọc hưởng ứng, Thơ, Văn vô nghĩa đã đi vào quên lãng.
Thực ra, nó phải như thế vì nó vô giá trị ngoài việc đọc lên trơn tru nhờ có vần có điệu và có vẻ vui vui.
Đây là một câu Văn vô nghĩa:
Chiều xuống dần trên ngọn núi nằm phơi gan gỗ đá, ù lì dăm ấn tượng lối thông xanh, chàng cúi xuống bồi hồi rong rêu phủ kí ức nhạt nhoà cao tới đỉnh trời mây gió vút lưa thưa để không còn vết cũ mờ xa cõi lòng tê tái, hồi chuông nào phủ dụ mãi hằng đêm chong đèn vào mộng mị.
Đọc lên, chữ nghĩa dồi dào, có mầu sắc, có góc cạnh không gian nhưng nếu chúng ta hỏi câu đó nói cái gì thì không ai giải thích được vì nó vô nghĩa.
Khi còn ở Sàigòn, tôi có quen biết nhà thơ Bùi Giáng và khi đi dạy học, tôi có gặp ông ở nhiều trường. Người ta kể ông rất điên; có lần đang dạy học ông cởi bỏ quần áo nhông nhông chạy ra ngoài đường. Những năm sau cùng đời ông, ông thành ra một kẻ vô gia cư, lây lất đầu đường xó chợ. Thực ra cái kiểu cách đó không giúp gì ông xây dựng văn học dù ông là một người có tài về chữ nghĩa.
Bùi Giáng là một Giáo sư Trung học chuyên dạy Việt văn. Ông mê thơ lục bát của cụ Nguyễn Du và làm thơ khá nhiều. Có lẽ ông là “tổ sư” của thơ vô nghĩa, sau đó có một số bạn trẻ cũng như nhà thơ “bắt chước” làm thơ vô nghĩa. Đây là một bài thơ của Bùi Giáng trong tập thơ “Ngàn thu rớt hột” mà tôi thường nói đùa với tác giả là “Ngàn thơ rớt hụt” bởi Thơ chưa ra Thơ.
Lạc về đầu rú khe truông
vốc năm ngón nhỏ gieo buồn rã riêng
Tuổi xanh nhiếp dẫn sai miền
đổ xiêu phấn bướm phi tuyền vọng âm
Tuần trăng quẩy gánh đau ngầm
Cõi bờ phôi dựng gió nhầm tin hoa
Em về rắc cỏ tháng ba
Xuống trang hồng hạnh tin già in rêu(BG)
Như trên đã trình bày, thơ vô nghĩa thì chính tác giả của nó cũng không hiểu ý nghĩa ra sao. Ngay câu thứ hai, vốc năm ngón nhỏ: hiểu được, nhưng gieo buồn rã riêng: không ai hiểu là cái gì. “nhiếp dẫn sai miền” cũng chưa từng nghe, từng dùng, chỉ có hướng dẫn, dắt dẫn, chỉ dẫn, đưa dẫn, chứ chưa thấy ai dùng nhiếp dẫn, phi tuyền vọng âm cũng chẳng ai hiểu là cái gì v.v...
Câu vô nghĩa như vậy nên nếu ta thay thế một chữ của tác giả bằng chữ của ta thì có khi tác giả đọc không biết, tất nhiên bạn đọc không ai biết chứ thơ có ý nghĩa thì chỉ thay thế một chữ “kém” vào là biết ngay. Thí dụ câu:
Em về rắc cỏ tháng ba
Xuống trang hồng hạnh tin già in rêu
Có thể đổi thành:
Em về rắc cỏ vườn hoa
Xuống trang lối hạnh tin nhà in rêu
Tờ báo Hương Quê số tháng 6-7 năm 2007 ở Na Uy đã “xóc” chữ bài thơ này làm thành 2 bài thơ khác cũng vô nghĩa y thế (theo tác giả Lâm Chương):
1
Khe về rú lạc đầu truông
Gieo năm ngón nhỏ vóc buồn rã riêng
Dẫn xanh sai nhiếp tuổi miền
Bướm xiêu phấn đổ vọng tuyền phi âm
Gánh đau trẩy xuống trăng ngầm
bờ phôi tin gió đụng nhầm cõi hoa
Cỏ em về rắc tháng ba
Hồng in tin hạnh trăng già xuống rêu
2
Rú đầu khe lạc về truông
Vốc năm ngón rã gieo buồn nhỏ riêng
Nhiếp sai dẫn tuổi xanh miền
phấn xiêu phi bướm vọng tuyền đổ âm
trăng đau tuần quẩy gánh ngầm
dựng bờ tin gió cõi nhầm phôi hoa
Rắc em về cỏ tháng ba
xuống in trang hạnh hồng già tin rêu
Ta có thể làm thêm vài bài nữa miễn là ta giữ được các vần: truông, buồn, riêng, miền, tuyền, âm, ngầm, nhầm, hoa, ba, già bởi xóc thế nào thì cũng phải giữ những vần của các câu thơ lục bát đó, nguyên tắc hàng đầu của thơ lục bát.
Nhưng chúng ta không làm Thơ kiểu dở hơi này, thơ này làm để bạn bè đọc chơi rồi bỏ, ai giữ lại cho phí giấy, phí memory. Nó lộn lạo, ngược xuôi, nếu muốn học thuộc lòng cũng không học thuộc được. Như tôi đã viết trong bài trước: Thơ hay = Dễ thuộc, dễ nhớ. Thơ ngược ngạo, trúc trắc ấy là khó thuộc. Thơ khó thuộc thì chẳng ai nhớ thành ra thơ kém giá trị.
Để tôi biểu diễn một bài thơ vô nghĩa khác, các bạn đọc chơi cho vui. Bài này viết ra ngay, không phải nghĩ, tìm tứ Thơ, nghĩa là nó rất dễ dàng:
NHỦ LÒNG
Nhủ lòng lần lữa chia sầu
Đầu non người đã tìm đâu trăng già
Tâm thành quyện ý cội hoa
Đài trang thanh sắc, cũng hoà hài nguyên
Ơi em, mỏng phận thiên tiên
Trăm năm phong nguyệt xe duyên lặng lờ
Tư duy trạng thái vẩn vơ
Có chăng phong nhuỵ một tờ thư xanh?
Ta “xóc” chữ cho nó thành ra một bài Thơ khác:
Chia lòng nhủ lữa lần sầu
Non đầu người đã tìm đâu trăng già
Quyện thành tâm ý cội hoa
Cũng đài trang sắc thanh hoà hài nguyên
Phận ơi em, mỏng thiên tiên
Lặng trăm năm nguyệt phong duyên xe lờ
Trạng tư duy thái vẩn vơ
Chăng phong nhuỵ có một tờ thư xanh!
Các bạn thấy, đọc lên nghe rõ kêu, rõ hay nhưng không có ý nghĩa gì. Thơ vô nghĩa!
Chúng ta tránh hết sức không bao giờ viết câu Văn hoặc câu Thơ vô nghĩa! Và ta xác quyết thi sĩ làm thơ vô nghĩa là thi sĩ chưa đúng với danh hiệu, một thi sĩ kém tài! Ở đây, tôi không nói thi sĩ Bùi Giáng kém tài, tuy nhiên ông muốn cái lạ, cái mới, cái vui để giải trí cho ông và bạn bè. Ông nghĩ làm đọc chơi rồi bỏ! Nếu bảo thơ ông hay thì nó hay ở những bài nào kia chứ không phải là những bài vô nghĩa này. Như câu:
Gặp nhau ở giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau!
Theo tôi, hai câu này chưa nói lên cái gì. Nếu thay hai chữ miên trường bằng hai chữ đoạn trường thì có lý hơn vì mùa xuân tượng trưng cho hạnh phúc, đoạn trường tượng trưng cho đau khổ; ý muốn nói hết bĩ cực, tới hồi thái lai; chứ miên trường, (giấc ngủ dài phải là trường miên), nào có ý nghĩa gì cho cả hai câu? (Hán Việt từ điển, Đào duy Anh, không có từ miên trường). Nhưng nhiều người đọc không hiểu nghĩa chữ Hán-Việt lấy làm thích thú với câu thơ. Nó chính là vô nghĩa đấy. Bùi Giáng cũng thích thơ tục:
Thu Ba âu yếm Thu bồn
Thu Bồn hứng chí sờ l..Thu Ba!
Ông quê ở Quảng Đà, Thu Bồn là con sông chảy qua vùng ông, còn Thu Ba là tên người con gái nào đó.
Thi nghiệp một tác giả phải là thế nào chứ đâu có kể những câu thơ lẻ tẻ, vô nghĩa làm chơi cho đỡ buồn đó! Nào chúng có giá trị gì!
Cũng có những người không muốn làm thơ vô nghĩa nhưng bí vận, bí chữ phải dùng đại một vài từ thành ra câu thơ vô nghĩa.
Thơ có nhiều cách đi, cách viết. Nếu đi lối này không được thì ta tìm lối khác, miễn từ chính xác và hay. Xoay xở để tìm ra vần, ra từ là nghệ thuật của Nhà thơ, không phải kém bản lãnh mà làm được. Và đó chính là cái Thi sĩ hơn người chỉ biết đọc thơ.
2- ĐIỀU CẦN HỌC TRƯỚC KHI LÀM THƠ
Như tôi đã viết trong bài trước “Thế nào là một bài thơ hay”, ai cũng có thể trở thành Nhà Thơ sáng tác được nhiều bài thơ giá trị, nếu:
- Yêu Thơ, có duyên nợ với Thơ, sính Thơ, tốt nhất là có thiên bẩm sáng tác Thơ.
- Chịu đọc Thơ, nhất là những bài Thơ hay, Thơ tiêu biểu. Nghiên cứu về Văn học sử trong có nhiều tác giả Thơ.
- Nếu có thể, học thuộc lòng một số bài Thơ mẫu, Thơ hay. Biết nhiều tiếng Hán-Việt.
- Học cho thấu đáo niêm, luật, vần, bằng, trắc các thể Thơ từ lục bát, song thất lục bát, Thơ Mới (8, 9 chữ), Thơ Tự do (không giới hạn chữ, câu), ngũ ngôn, tứ tuyệt, thơ Đường luật v.v…. Nhìn một bài thơ lạ, ta đã biết ngay tác giả sử dụng thể Thơ nào, phải hiệp vận ở những đâu, bằng trắc ra sao vì bằng trắc trong Thơ tiếng Việt rất quan trọng. Nếu không tuân theo luật này thì câu Thơ đọc lên trúc trắc khó nghe dù ý nghĩa cao xa đến mấy.
- Luôn luôn nhớ điều này khi ta chưa thấu đáo về luật Thơ, thể Thơ, luật bằng trắc, cách hiệp vận v.v...thì ta đừng làm những bài Thơ (con cóc) gửi đi. Nó làm tốn thì giờ của ta và của Toà Soạn và những vụ thử như vậy, dù có được đăng trên báo, chắc chắn nó không làm cho Thơ ta hay lên được. Mục tiêu của ta là Thơ phải hay hoặc trung bình nghĩa là coi được (sạch nước cản). Nếu thơ dở thì có làm ra một nghìn bài, Thơ vẫn dở như thường. Học, đọc nhiều hơn viết vẫn là thái độ khôn ngoan.
- Làm thử vài bài Thơ xong nhờ một Nhà Thơ giỏi (thực sự) coi lại dùm và cho lời khuyên về ý Thơ, chữ dùng, vần, điệu, bằng trắc v.v... Miệt mài với Thơ nhiều ắt có ngày Thơ sẽ khá.
- Khi nghe phê bình đứng đắn không buồn lòng nhưng tìm cách sửa những khuyết điểm và học hỏi thêm.
- Nhà Thơ được ví như một người đầu bếp. Anh ta phải nấu những món ăn ngon đưa lên bàn phục vụ thực khách. Như vậy anh ta phải có cá, thịt, rau, trái và gia vị trong bếp để nấu nướng thì thức ăn mới ngon. Nếu anh ta có rất ít nguyên liệu, làm thế nào anh ta có thể nấu ra những món lạ và ngon?
Nhà Thơ cũng thế, nguyên liệu của Nhà Thơ là từ (ngôn từ). Kém ngôn từ, nhà Thơ không thể xoay xở được. Thí dụ viết về miền Bắc, phải có những từ dùng nơi miền Bắc; viết về trong Nam, hay Trung phải có những từ thông dụng trong Nam hay Trung. Có thể bài thơ chưa cần sử dụng tới nhưng vẫn cần có sẵn để khi cần là có ngay. Có nghĩa Nhà Thơ cần học nhiều, biết nhiều các từ ngữ từng địa phương như thế mới có đủ khi cần dùng. Nhà Thơ yếu ngôn từ cũng ví như người đầu bếp quá ít nguyên liệu nấu ăn.
- Người ta nói Nhà Thơ phải có thiên bẩm tức chịu ảnh hưởng khí huyết (gene) từ cha mẹ, ông bà; không phải ai cũng có “căn” làm Thơ, viết văn. Điều ấy cũng đúng tuy nhiên nếu ta chịu miệt mài với Thơ thì cũng có ngày ta có được một khả năng dệt những vần Thơ, hay hay không còn tuỳ vào cái vốn liếng về Thơ mà ta có.
3- NHỮNG ĐIỀU PHẢI TRÁNH KHI LÀM THƠ
- Thơ, Văn quí ở chỗ sáng tạo. Câu thơ, bài văn cho đến bút danh (pen name), bút hiệu không cóp nhặt của người, bắt chước người. Nếu ý của ta trùng với ý của người thì ta tìm cách biểu diễn sao cho khác hẳn cách đã trình bày của một tác giả khác. Nếu ta cần dùng một vài câu thơ của người khác thì phải ghi chú là của tác giả nào ở bên dưới và câu đó phải đóng ngoặc kép hoặc dùng chữ nghiêng. Thơ, Văn là tài sản tinh thần của mỗi tác giả y như của cải, tiền bạc, không thể cứ dùng tự nhiên (quên không trả) hoặc lại nhận vơ là của mình. Những kẻ đạo văn, đạo thơ bị người đời khi dể.
- Ý đã nói rồi, không nhắc lại. Ý của bài Thơ chính là linh hồn bài Thơ; vần điệu, niêm, luật bằng trắc cũng quan trọng nhưng xếp sau ý.
- Làm một bài Thơ tức là nói về một vấn đề. Phải nghiên cứu tường tận vấn đề đó cho thấu đáo rồi mới đặt bút viết. Ý trước, ý sau, phải sắp xếp để khỏi lộn xộn.
- Thường bài thơ cũng như bài văn: có mở bài, thân bài và kết luận. Ta phải tôn trọng nguyên tắc đó.
- Chữ, câu vô nghĩa hay trái nghĩa phải bỏ đi ngay, không thương tiếc. Có người vì “thích” một vài từ dễ thương, giữ câu Thơ lại, nó cho phản nghĩa với những gì Nhà Thơ đang viết và nhắm tới.
- Viết đúng chính tả, chữ nào nghi ngờ thì dùng từ điển (có cuốn dùng được, có cuốn không).
- Cũng nên hiểu làm thơ phải có sự linh động. Có những bài thơ kém niêm luật nhưng rất hay; trái lại có những bài thơ giữ rất kỹ niêm luật nhưng khô khan, vô cảm, ngôn từ cứng nhắc. Vì vậy, làm được một bài thơ vừa đúng niêm luật vừa hay là một điều khó. Bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của bà huyện Thanh Quan, loại thơ Đường luật, vừa hay vừa chỉnh về niêm luật. Luật bằng trắc phải cố giữ để câu thơ đọc lên không trúc trắc, khó đọc sinh ra kém hay. Nhà thơ phải biết xoay xở trong nghệ thuật dùng “từ” thì thơ mới hay được.
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường!
Bà huyện Thanh Quan
- Nhiều bạn nghĩ thơ lục bát dễ làm. Thực tế trái lại. Nếu cách sử dụng ngôn từ của chúng ta trong lục bát không tinh vi, sắc bén, hình ảnh kém ấy là bài thơ kém, đọc lên biết ngay do một người mới biết hay chưa biết làm thơ.
Hai bài lục bát sau đây tôi làm rất nhanh, mỗi bài chỉ trong vài, ba phút là xong. Xong rồi cũng cần chỉnh lại vài ba từ cho được ưng ý.
Hỏi Nhà
Nhà anh, em hỏi làm chi?
Cầu vồng dẫn tới lối đi Ngân Hà
Cổng vào chạm khắc ngọc ngà
Mái đúc vàng khối, cột là kim cương!
Liễu, hồng trồng rất dễ thương
Phòng dành hai đứa mầu hường đào xuân.
Mời em ghé thử một lần!
Cam đoan em sẽ nhiều lần tới thăm
Mùa Hè rất sẵn trăng rằm
Thu về vàng tím mây chăng lưng trời
Xuân sang sóng bước dạo chơi!
Cuộc đời nhàn tản kiếp người cõi tiên!
Quên đi hết mọi ưu phiền
Bồng lai tiên cảnh chỉ riêng chúng mình!
Duyên giai ngẫu, nợ ba sinh
Sống cho vẹn nghĩa, trọn tình yêu thương!(tđn)
Hỏi Nhà
Bài 2
Nhà em? Anh hỏi làm chi?
Đường lên Phú Thọ, lối đi đền Hùng!
Cổng vào xanh biếc bách tùng
Mái gồi vàng óng, trúc xung quanh vườn!
Mai, đào trồng rất dễ thương
Thư phòng đọc sách mầu hường đào xuân
Đường về Hà Nội cũng gần
Lối lên Bản Giốc, Hải Vân cận kề
Mùa Đông cho chí mùa Hè
Tiết trời ấm áp, hoa khoe sắc mầu
Thu về trăng rụng bên cầu
Xuân sang đào cúc một mầu xinh tươi
Ghé đây anh thấy nụ cười
Ưu phiền quên hết, người người thân thương
Nhà em anh đã biết đường
Mẹ cha đã thuận, anh thường ghé thăm!(tđn)
4- LÀM THẾ NÀO ĐỂ LƯỢNG GIÁ MỘT BÀI THƠ CHO ĐÚNG ?
Đây không phải là một việc dễ. Tuy nhiên, bằng vào kinh nghiệm lâu ngày đọc Thơ, nhận xét Thơ của ta cộng với:
- Giữ sự vô tư, khách quan, không có hảo cảm hay ác cảm về sáng tác và tên của tác giả.
- Đặt bài Thơ vào bối cảnh xã hội lúc tác giả viết nó để xem tác giả muốn gửi gấm cái gì? Như Đoạn Trường Tân Thanh trong đó Tố Như tiên sinh muốn nêu lên thuyết tài mệnh tương đố và ví cuộc đời của mình cũng lận đận, ba chìm bảy nổi như cuộc đời cô Kiều.
Bài Thăng Long thành hoài cổ của Bà huyện Thanh Quan là một nỗi u hoài vọng về nhà Lê với thời đại hoàng kim của nhà vua, nay đã không còn nữa mà chỉ còn là những tang thương, biến đổi với tiêu điều!
Nếu ta có đôi mắt của một người chơi đá quí 30 năm hoặc người thợ kim hoàn đã nhìn thấy kim cương hàng ngày trong nhiều năm, ta mới có nhãn lực phân biệt được đâu là viên kim cương thiệt, đâu là viên kim cương giả (cubic zeconia). Thời nay, có những tác giả khen thơ, văn của bạn một tấc đến trời (Mặc áo thụng vái nhau) ta chớ nên tin vào những dòng chữ khen gượng ấy nhưng khi thấy bài thơ hoặc văn hay, ta không tiếc lời khen ngợi (miễn đúng) vì đó cũng là cách khích lệ để nền Văn học thăng tiến.
Chúc các bạn trẻ nhiều may mắn và nghị lực trong việc tạo cho mình một khả năng thơ, văn! Nó tô điểm đời ta và làm cho đời đẹp thêm!
5- Số bài thơ đã làm của cá nhân người viết
Chỉ khi xuất bản sách, viết Mục lục cho bạn đọc dễ tìm một bài thơ, bất đắc dĩ mới phải đếm nhưng cả cuộc đời làm thơ của tôi, cả thơ chính trị, cũng cả hơn ngàn bài. Hai cuốn Như Áng Mây Trôi I và Như Áng Mây Trôi II cũng khoảng gần 400 bài (Cuốn Sau Giờ Kinh Chiều I xb 2009 gần 200 bài). Tôi làm thơ rất nhanh, khi có đề tài, có hứng, tôi chỉ vẩy bút trong năm, mười phút là xong một bài (thường là Thơ Mới vì tôi thích loại này, câu chữ không giới hạn). Nhưng nếu không có hai yếu tố trên, thơ làm gượng ép khó ra lắm, không hay và mất thêm giờ!
Chúc các bạn yêu Thơ và muốn trở thành Nhà thơ sớm đạt thành ước nguyện!
6- Tôi bắt đầu viết văn từ năm 1958 cho nhiều nhật báo ở Sàigòn như Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Hoà Bình, Bút Thép... Tạp chí Thời Nay, các tạp chí sinh viên nhiều Đại học, Tổng thư Ký Toà soạn Bán Nguyệt San Tinh Thần/ Nha Tuyên Uý Công giáo QLVNCH từ 1959 và sau đó là Chủ bút BNS này, khi tôi vào Hạ Nghị Viện và Chủ tịch Uỷ Ban Phát Triển Nông Thôn, thỉnh thoảng tôi vẫn gửi bài đăng nhiều tờ báo, viết về nhiều vấn đề. Mãi tới năm 1968 hay 1969 văn hữu Bùi Quang Triết mới ra chiêu hồi với cấp bậc Đại tá. Ông bắt đầu viết về những gì tai nghe mắt thấy ở ngoài Bắc ... . Ông lấy bút danh là Xuân Vũ, có lẽ ông chưa đọc được những bài của tôi trên báo nên ông thích cái bút danh này, ông dùng nó. Có mấy người bạn của tôi nói tôi nên gọi điện thoại cho ông Bùi quang Triết, đề nghị ông lấy bút danh khác kẻo trùng nhưng tôi nghĩ, thôi kệ ông, Xuân Vũ Bùi quang Triết với Xuân Vũ Trần Đình Ngọc khác nhau chứ? Người Mỹ có cả triệu tên John, tên Michael thì sao? Người Việt thiếu gì tên Vinh, tên Thành, tên Dung, tên Hà…nhưng ai ra người đó không lẫn lộn được. Vả lại, tôi còn nhiều bút hiệu khác như Bút Xuân, Đan Tâm, An nhiên, Trần Công Tử v.v...và tên cha mẹ đặt Trần Đình Ngọc, đâu có cứ là phải Xuân Vũ! Cho là tên giống nhau nhưng văn phong mỗi người mỗi khác, hướng đi mỗi người mỗi khác, không ai giống ai, đó là cái đẹp của Văn học Nghệ Thuật! Gần thời gian ông Triết qua đời, tôi và ông là hai cây viết cho tạp chí Đoàn Kết-Austin, TX, chúng tôi đã thương tiếc ông nhiều vì ông ................