100 bài thơ của thế kỷ 20 được xếp hạng hay nhất tại VN
04.06.2007 03:12
Được phát động từ đầu năm 2005, cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã lựa ra được 100 thi phẩm xuất sắc và công bố trong Đêm Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam (3/3). Nhưng sự vắng mặt của nhiều bài thơ nổi tiếng trong danh sách này không khỏi khiến người yêu thơ phải nuối tiếc.
Không thiếu những Tràng giang - Huy Cận; Ông Đồ - Vũ Đình Liên, Đất nước - Nguyễn Đình Thi, Núi Đôi - Văn Cao, Tây tiến - Quang Dũng, Người về - Hoàng Hưng…, cuộc bình chọn do Trung tâm văn hóa Doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục phối hợp tổ chức đã góp phần tôn vinh những sáng tác nổi bật của một thế kỷ thi ca Việt Nam. 100 bài thơ, chia đều cho 100 tác giả, không một ai được vinh dự góp mặt với hơn một sáng tác. Hiện tượng này khiến không ít độc giả ngậm ngùi tiếc nuối khi Xuân Diệu có Nguyệt cầm nhưng không có Đây mùa thu tới hay Vội vàng… Hoàng Cầm có Bên kia sông Đuống nhưng không có Lá diêu bông… Nguyễn Duy có Đò lèn nhưng lại vắng Tre Việt Nam hay Hơi ấm ổ rơm…
Độc giả yêu thơ đang ngày càng già đi. Ảnh: VOV. Tỏ ra thích thú trước kết quả cuộc bình chọn, Mỹ Anh, sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cho biết: “Đây là một bộ sưu tập những bài thơ hay của Việt Nam. Tôi biết phần lớn các bài thơ trong top 100 này, nhưng cũng có nhiều bài tôi chưa hề nghe tên, ví như Một vị tướng về hưu của Nguyễn Đức Mậu, Muôn vàn tình thương yêu trùm lên khắp quê hương của Việt Phương… Chắc chắn tôi sẽ tìm đọc thêm những tác phẩm này”. Phong trào Thơ Mới góp mặt trong danh sách với số lượng tác giả, tác phẩm lớn nhất. Tiếp đó là những sáng tác có ảnh hưởng sâu nặng đến suy nghĩ và hành động của bao thế hệ độc giả qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp. Nhà văn Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, cho biết: “Chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết công phu, thể hiện tình yêu và thái độ trân trọng với thơ ca. Có những độc giả viết đến hàng chục trang bình chọn và đưa ra nhiều lý lẽ bảo vệ cho sự lựa chọn của mình”. 100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã được Nhà xuất bản in thành sách và phát hành rộng rãi. Danh sách 100 bài thơ hay nhất 1) (!) 2) Ngày Hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc. 3) Những bóng người trên sân ga - của Nguyễn Bính. 4) Tạm biệt Huế - Thu Bồn. 5) Vào chùa - của Đồng Đức Bốn. 6) . 7) Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao. 8) Núi Đôi - Vũ Cao. 9) Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm. 10) Tràng Giang - Huy Cận. 11) Dọn về làng - Nông Quốc Chấn. 12) Quê hương - Nguyễn Bá Chung. 13) Say đi em - Vũ Hoàng Chương. 14) Miền Trung - Hoàng Trần Cương. 15) Đường về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ. 16) Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ. 17) Nguyệt cầm - Xuân Diệu. 18) . 19) Tây tiến - Quang Dũng. 20) Lên Côn Sơn - Khương Hữu Dụng. 21) Đò lèn - Nguyễn Duy. 22) Chiều - Hồ Dzếnh. 23) Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà. 24) Cha tôi - Lê Đạt. 25) Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm. 26) Núi mường Hung dòng sông Mã - Cầm Giang. 27) Mắt buồn - Bùi Giáng. 28) Hai sắc hoa tigôn - T.T.KH. 29) Đọc thơ ức Trai - Sóng Hồng. 30) Bài thơ tình ở Hàng Châu - Tế Hanh. 31) Trở về quê nội - Ca Lê Hiến. 32) Đêm mưa - Hoàn. 33) Những đứa trẻ chơi trước cửa đền - Thi Hoàng. 34) Cửu Long giang ta ơi - Nguyên Hồng. 35) . 36) Nỗi niềm Thị Nở - Quang Huy. 37) Đường khuya trở bước - Đinh Hùng. 38) Người về - Hoàng Hưng. 39) . 40) Khi con tu hú - Tố Hữu. 41) Lên Cấm sơn - Thôi Hữu. 42) Lời nói dối nhân ái - Trang Thế Hy. 43) Gánh nước đêm - Á Nam Trần Tuấn Khải. 44) Tỳ bà - Bích Khê. 45) Gửi bác Trần Nhuận Minh - Trần Đăng Khoa. 46) Thu điếu - Nguyễn Khuyến. 47) Bến Mi Lăng - Yến Lan. 48) Tháp Chàm - Văn Lê. 49) Ông đồ - Vũ Đình Liên. 50) Đèo cả - Hữu Loan. 51) Viếng bạn - Hoàng Lộc. 52) Tiếng thu - Lưu Trọng Lư. 53) Nhớ rừng - Thế Lữ. 54) . 55) Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây. 56) Dặn con - Trần Nhuận Minh. 57) Hội Lim - Vũ Đình Minh. 58) Khóc người vợ hiền - Tú Mỡ. 59) Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ. 60) Quê hương - Giang Nam. 61) Thị Màu - Anh Ngọc. 62) Nhớ - Hồng Nguyên. 63) Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn. 64) Người đàn bà ngồi đan - Ý Nhi. 65) Nhớ máu - Trần Mai Ninh. 66) Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh. 67) Bông và mây - Ngô Văn Phú. 68) Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương - Việt Phương. 69) Đợi - Vũ Quần Phương. 70) Tên làng - Y Phương. 71) Lời mẹ dặn - Phùng Quán. 72) Có khi nào - Bùi Minh Quốc. 73) Tự hát - Xuân Quỳnh. 74) Áo lụa Hà Đông - Nguyên Sa. 75) Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao. 76) Người đẹp - Lò Ngân Sủn. 77) Đồng dao cho người lớn - Nguyễn Trọng Tạo. 78) Tống biệt hành - Thâm Tâm. 79) Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo. 80) Đất nước - Nguyễn Đình Thi. 81) Những người đàn bà gánh nước sông - Nguyễn Quang Thiều. 82) Nghe tiếng cuốc kêu - Hữu Thỉnh. 83) Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông. 84) Bờ sông vẫn gió - Trúc Thông. 85) Bến đò ngày mưa - Anh Thơ. 86) Thăm lúa - Trần Hữu Thung. 87) Cổ lũy cô thôn - Phạm Thiên Thư. 88) Nói sao cho vợi - Thu Trang. 89) Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân. 90) Bên mộ cụ Nguyễn Du - Vương Trọng. 91) Nhớ Huế quê tôi - Thanh Tịnh. 92) Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ. 93) Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử. 94) Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui. 95) Em tắm - Bạc Văn Ùi. 96) Một ngày ta ngoái lại - Đinh Thị Thu Vân. 97) Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên. 98) Bếp lửa - Bằng Việt. 99) Vườn trong phố - Lưu Quang Vũ. 100) Thương vợ - Trần Tế Xương.
100 bài thơ hay nhất thế kỷ - liệu đã là hay nhất? TT - Cuộc bình chọn 100 bài thơ VN hay nhất thế kỷ do Trung tâm Văn hóa doanh nhân và nxb Giáo Dục tổ chức đã có kết quả. 100 bài thơ được công bố đã gây sự chú ý của không ít người mê thơ và cả người... thờ ơ với thơ. Tuổi Trẻ đã có cuộc trao đổi với nhà văn Lê Lựu (ảnh), giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân, thành viên BTC cuộc thi - về quá trình tổ chức bình chọn. >> 100 bài thơ hay nhất VN thế kỷ 20 * Thưa ông, 100 bài thơ hay nhất thế kỷ, cái đích có vẻ quá xa và quá rộng so với một cuộc bầu chọn? - Không quá đâu, vì thời gian của cuộc bầu chọn là... hai năm. Trong hai năm, độc giả đã có đủ thời gian để đọc, thích thú, cân nhắc, lựa chọn và gửi đi những kết quả cùng với tâm tư, tình cảm của mình. Mỗi người có quyền chọn 100 bài trong danh sách của mình. Với thơ, như vậy không phải là quá nhiều. * Nhưng hình như lượng người tham gia bình chọn không đông lắm? - Không quá đông như bình chọn cầu thủ bóng đá nhưng cũng không ít đâu, nếu so với đầu sách thơ đã in ra. Gần 10.000 (tôi không nhớ con số chính xác) thư bình chọn đã gửi đến BTC. Có những người sau khi đã đưa ra danh sách 100 bài thơ mình cho là hay nhất, còn gửi kèm theo những lời bình dài đến... 300 trang A4 được đóng quyển cẩn thận. Chúng tôi hiện lưu giữ khoảng 10 tập “bình thơ” như vậy. * Nhiều người ngỡ ngàng vì kết quả đã được công bố, nhiều bài thơ hay, đi vào tâm thức nhiều thế hệ đã không có tên trong danh sách, và cũng có nhiều bài thơ... lạ (ví dụ như Hữu Loan có tên trong danh sách không phải bằng Màu tím hoa sim bất hủ mà lại là Đèo Cả). Liệu kết quả có tuyệt đối là sự bầu chọn của độc giả? - Vì phối hợp với NXB Giáo Dục nên tuy đối tượng bầu chọn là tất cả những ai yêu thơ nhưng thực tế vẫn chủ yếu là sinh viên và học sinh trung học tham gia. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có một hội đồng thẩm định để đọc và so sánh những thư bình chọn của bạn đọc gửi đến với hàng trăm tuyển tập thơ đã in trước đó, chủ yếu để xem có độ chênh nào đáng kể không, có tên tuổi lớn nào bị bỏ sót không. Và đáng mừng là không có ai bị bỏ sót, độ chênh trong các bình chọn của độc giả và của các người làm tuyển chọn thơ chuyên nghiệp không lớn lắm. Trong số 100 bài đã được chọn cuối cùng, thật ra chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài. * Vậy tác dụng xã hội đầu tiên và tích cực nhất của cuộc bầu chọn 100 bài thơ VN hay nhất thế kỷ này là gì, thưa ông? - Chúng tôi không có tham vọng gì lớn, nhưng chí ít cũng đã làm được hai việc: Thứ nhất, khởi động lại mối quan tâm của độc giả với thơ và hâm nóng lại tình yêu thơ (nếu có). Thứ hai, giúp NXB Giáo Dục nhìn lại được thẩm mỹ thơ của công chúng và giúp họ có sự lựa chọn rộng rãi và mềm mại hơn khi đưa thơ vào chương trình giáo dục. Những bài thơ trong SGK trước đây có lẽ hơi khô khan và mang nặng tính giáo dục, mà học sinh còn cần cả những cái khác nữa, trước tiên là cần thơ phải hay. * Xin chân thành cảm ơn ông. THU HÀ thực hiện(Tuổi Trẻ)
2.NGÀY HÒA BÌNH ĐẦU TIÊN Phùng Khắc Bắc Những sợi nắng xuyên qua nhà mình Thành những mũi tên Thành những viên đạn, Bắn tiếp vào anh không gì che chắn Phải nhận tất cả, Van anh. Hôm qua chưa nhận được một viên đạn Hôm nay nhận những lỗ thủng Anh về quê không mang súng Vũ khí lúc này hai bàn tay Mẹ giục: - Ăn cơm, con! Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà Và Mùi ổ rơm. . NHỮNG BÓNG NGƯỜI TRÊN SÂN GA Nguyễn Bính Những cuộc chia lìa khởi tự đây Cây đàn sum họp đứt từng dây Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc Lần lượt theo nhau suốt tối ngày. Có lần tôi thấy hai cô gái Sát má vào nhau khóc sụt sùi Hai bóng chung lưng thành một bóng "Đường về nhà chị chắc xa xôi ?" Có lần tôi thấy một người yêu Tiễn một người yêu một buổi chiều Ở một ga nào xa vắng lắm Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu. Hai người bạn cũ tiễn chân nhau Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu Họ giục nhau về ba bốn bận Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu. Có lần tôi thấy vợ chồng ai Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài Chị mở khăn giầu anh thắt lại: "Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!" Có lần tôi thấy một bà già Đưa tiễn con đi trấn ải xa Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng Lưng còng đổ bóng xuống sân ga Có lần tôi thấy một người đi Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì Chân bước hững hờ theo bóng lẻ Một mình làm cả cuộc phân ly. Những chiếc khăn màu thổn thức bay Những bàn tay vẫy những bàn tay Những dôi mắt ướt nhìn đôi mắt, Buồn ở đâu hơn ở chốn này ? 4.TẠM BIỆT HUẾ Thu Bồn Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng Mặt trời vàng và mắt em nâu Xin chào Huế một lần anh đến Để ngàn lần anh nhớ hư vô Em rất thực nắng thì mờ ảo Xin đừng lầm em với cố đô Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền Nón rất Huế mà đời không phải thế Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng Nhịp cầu cong và con đường thẳng Một đời anh đi mãi chẳng về đâu Con sông dùng dằng con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng Anh trở về hóa đá phía bên kia. 7.NHỮNG CHIẾC XE XÁC QUA PHƯỜNG DẠ LẠC Văn Cao Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa Chập chờn ảo hóa tà ma... Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục Tình tang... Não nuột khóc tàn sương Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể Ta đi giữa đường dương thế Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây... Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ Thanh xuân hờ thanh xuân Bước gần ta chút nữa thêm gần Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy Ai hủy đời trên tang trống nhỉ? Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya! Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo! Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi! - Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo Dặt dìu cung bậc âm dương Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch Đầm đìa rả rích phương Đông Mang mang thở dài hồn đất trích Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô Cửa ô đau khổ Bốn ngả âm u (Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc) Đêm đêm, dài canh tan tác Bốn vực nhạc động, vẫy người Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời Ta về gác chiếu chăn gào tự tử Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ Kèn nhịp xa điệu múa vô luân Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc Kiếp người tang tóc Loạn lạc đòi xương chất lên xương Một nửa kêu than, ma đói sa trường Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác Đi vào ngõ khói công yên Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền Hương nha phiến chập chờn mộng ảo Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo - Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực Mưa, mưa hằng thao thức Trong phố lội đìu hiu Mưa, mưa tràn trên vực - Hang tối gục tiêu điều Mang linh hồn cô liêu Tiếng xe càng ám ảnh Tiếng xa dần xa lánh Khi gà đầu ô kêu. (1945) 8. NÚIĐÔI Vũ Cao Bảy năm về trước, em mười bảy Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa Bữa thì em tới, bữa anh sang Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi Em vẫn đùa anh: sao khéo thế Núi chồng núi vợ đứng song đôi! Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới Ngơ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau. Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình năm lại năm Mấy bận dân công về lại hỏi Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng ? Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi Mỗi tin súng nổ vành đai địch Sương trắng người đi lại nhớ người. Đồng đội có nhau thường nhắc nhở Trung du làng nước vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm Em vẫn đi về những bến sông ? Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi. Mới tới đầu ao, tin sét đánh Giặt giết em rồi, dưới gốc thông Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa Em sống trung thành, chết thủy chung! Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông bờ có con đường quen. Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo: Em còn trẻ lắm, nhất làng trong; Mấy năm cô ấy làm du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng ? Từ núi qua thôn, dường nghẽn lối Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao, nhà đổ cháy Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay Cha mẹ đưa nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau Nứa gianh nửa mái lều che tạm Sương nắng khuây dần chuyện xót đau. Anh nghe có tiếng người qua chợ: Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu! Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ. Oán thù còn đó, anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục Đã chết vì dân giữa đất này! Ai viết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau anh gọi em:đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm. 9. BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG Hoàng Cầm Em ơi! Buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm đồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu ? Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em xột xoạt quần nâu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ? Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa mầu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ? Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo Xì xồ cướp bóc Tan phiên chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp trên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ? Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn Đêm buông xuống dòng sông Đuống -- Con là ai ? -- Con ở đâu về ? Hé một cánh liếp -- Con vào đây bốn phía tường che Lửa đèn leo lét soi tình mẹ Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể Những chuyện muôn đời không nói năng Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao loé giữa chợ Gậy lùa cuối thôn Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn Ăn không ngon Ngủ không yên Đứng không vững Chúng mày phát điên Quay cuồng như xéo trên đống lửa Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa Tiếng bà ru cháu buổi trưa Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu "À ơi... cha con chết trận từ lâu Con càng khôn lớn càng sâu mối thù" Tiếng em cắt cỏ hôm xưa Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay "Thân ta hoen ố vì mày Hờn ta cùng với đất này dài lâu..." Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu Cánh đồng im phăng phắc Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay Mỗi đêm một lần mở hội Trong lòng con chim múa hoa cười Vì nắng sắp lên rồi Chân trời đã tỏ Sông Đuống cuồn cuộn trôi Để nó cuốn phăng ra bể Bao nhiêu đồn giặc tơi bời Bao nhiêu nước mắt Bao nhiêu mồ hôi Bao nhiêu bóng tối Bao nhiêu nỗi đời Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh. (Việt Bắc, tháng 4-1948) 10.TRÀNG GIANG Huy Cận Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành không lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. 11.DỌN VỀ LÀNG Nông Quốc Chấn Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng dày như củi. Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ, Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy, Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi Cơn gió bão trên rừng cây đổ Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa Ðường đi lại vắt bám đầy chân. Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng. Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi, Nó vơ hết áo quần trong túi Mẹ địu em chạy tót lên rừng Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải Bà lòa mắt không biết lối bước đi. Làm sao bây giờ: ta phải chống! Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh, Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây Súng nổ ngay đì đùng một loạt, Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất Cha ơi: cha không biết nói rồi... Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy? Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời! Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc. Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín", con im. Lán anh em rải rác không biết nơi tìm Không ván, không người đưa cha đi cất. Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng, Con cởi áo liệm thân cho bố; Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ Máu đầy tay, trên mặt nước tràn... Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn Băm xương thịt mày, tao mới hả. Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang Dọn láng, rời rừng, người xuống làng Người nói cỏ lay trong ruộng rậm Con cày mẹ phát, ruộng ta quang. Ðường cái kêu vang tiếng ô tô. Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ. Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá. Mặc gà gáy chó sủa không lo, Ngày hai bữa rau ta có muối. Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu Có bắp xay độn gạo no lâu, Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm, Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con Quả trên cành không lo tự chín tự rụng, Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng. Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng, Ra đường xe, hát nói ung dung Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai, Chân đi có giày không sợ nẻ Trên đầu có mũ che nắng mưa. Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ! Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà, Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta. Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ. (Mùa đông 1950) 12.QUÊ HƯƠNG Nguyễn Bá Chung Ba mươi năm xa cách quê hương Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ Nhớ lần đầu - tóc tang trời ủ rủ Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên Có cái gì là lạ không thể quên Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi Như nỗi đau không thể làm dịu vợi Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm Như bầu trời nửa xám nửa không quen Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ Những người xưa vì nước xả thân mình Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh Bao năm tháng những người làng chịu đói Năm Ất Dậu tất cả làng tụ lại Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày Để về đây nhận lại mặt người Để mình biết mình vẫn là mình cũ Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ Nhìn quê hương để lại nhận ra mình
13.SAY ĐI EM Vũ Hoàng Chương Khúc nhạc hồng êm ái Điệu kèn biếc quay cuồng Một trời phấn hương Đôi người gió sương Đầu xanh lận đận, cùng xót thương càng nhớ thương Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo, Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương, Lòng nghiêng tràn hết yêu đương Bước chân còn nhịp. Nghê thường lẳng lơ. Ánh đèn tha thướt Lưng mềm, não nuột dáng tơ Hàng chân lả lướt Đê mê hồn gửi cánh tay hờ. Âm ba gờn gợn nhỏ, Ánh sáng phai phai dần Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân Lui đôi vai, tiến đôi chân, Riết đôi tay, ngả đôi thân, Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ, Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta ! Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa Tay mềm mại, bước còn chưa chuếnh choáng. Chưa cuối xứ Mê Ly, chưa cùng trời Phóng Đãng. Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men. Say đi em! Say đi em! Say cho lơi lả ánh đèn Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt. Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết! Ta quá say rồi Sắc ngả màu trôi Gian phòng không đứng vững Có ai ghì hư ảnh sát kề môi. Chân rã rời Quay cuồng chi được nữa Gối mỏi gần rơi Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa Say không còn biết chi đời Nhưng em ơi, Đất trời nghiêng ngửa Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ; Đất trời nghiêng ngửa Thành Sầu không sụp đổ, em ơi! 16.ANH ĐỪNG KHEN EM Lâm Thị Mỹ Dạ Lần đầu khi mới làm quen Anh khen cái nhìn em đẹp Trời mưa òa cơn nắng đến Anh khen đôi má em hồng Gặp người tàn tật em khóc Anh khen em nhạy cảm thông Thấy em sợ sét né giông Anh khen sao mà hiền thế Thấy em nâng niu con trẻ Anh khen em thật dịu dàng Khi hôn lên câu thơ hay Ấp trang sách vào mái ngực Em nghe tim mình thổn thức Thương người làm thơ đã mất Trái tim giờ ở nơi đâu Khi đọc một cuộc đời buồn Lòng em xót xa ấm ức Anh khen em cảm xúc Và bao điều nữa...Anh khen Em sợ lời khen của anh Như sợ đêm về trời tối Nhiều khi ngồi buồn một mình Trách anh sao mà nông nỗi Hãy chỉ cho em cái kém Ðể em nên người tốt lành Hãy chỉ nơi anh cái xấu Ðể em chăm chút đời anh Anh ơi anh có biết không Vì anh em buồn biết mấy Tình yêu khắt khe thế đấy Anh ơi anh đừng khen em. 17. NGUYỆT CẦM Xuân Diệu Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh Lung linh bóng sáng bỗng rung mình Vì nghe nương tử trong câu hát Đã chết đêm rằm theo nước xanh Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi Long lanh tiếng sỏi vang vang hận: Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người... Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề Sương bạc làm thinh, khuya nín thở Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê. 19.TÂY TIẾN Quang Dũng Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. (Phù Lưu Chanh, 1948) 20.LÊN CÔN SƠN Khương Hữu Dụng Lên đỉnh Côn Sơn tìm Nguyễn Trãi Trên đầu xanh ngắt một bầu không Bàn cờ thế sự quân không động Mà dấy quanh mình nỗi bão giông.
22.CHIỀU Hồ Dzếnh Trên đường về nhớ đầy Chiều chậm đưa chân ngày Tiếng buồn vang trong mây. Chim rừng quên cất cánh Gió say tình ngây ngây Có phải sầu vạn cổ Chất trong hồn chiều nay? Tôi là người lữ khách Màu chiều khó làm khuây Ngỡ lòng mình là rừng Ngỡ hồn mình là mây Nhớ nhà châm điếu thuốc Khói huyền bay lên cây... 23. THĂM MẢ CŨ BÊN ĐƯỜNG Tản Đà Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà, Đường xa, người vắng, bóng chiều tà. Một dãy lau cao làn gió chạy, Mấy cây thưa lá sắc vàng pha. Ngoài xa trơ một đống đất đỏ, Hang hốc đùn lên đám cỏ gà. Người nằm dưới mả, ai ai đó ? Biết có quê đây hay vùng xa ? Hay là thuở trước kẻ cung đao Hám đạn liều tên quyết mũi dao, Cửa nhà xa cách, vợ con khuất, Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao? Hay là thuở trước kẻ văn chương Chen hội công danh nhỡ lạc đường, Tài cao phận thấp, chí khí uất, Giang hồ mê chơi quên quê hương ? Hay là thuở trước khách hồng nhan Sắc sảo khôn ngoan đất trời ghen, Phong trần xui gặp bước lưu lạc, Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn ? Hay là thuở trước khách phong lưu Vợ con đàn hạc đề huề theo, Quan san xa lạ đường lối khó Ma thiêng nước độc phong sương nhiều ? Hay là thuở trước bậc tài danh Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh Giận duyên tủi phận, hờn ân ái Đất khách nhờ chôn một khối tình ? Suối vàng sâu thẳm biết là ai ? Mả cũ không ai kẻ đoái hoài! Trải bao ngày tháng trơ trơ đó, Mưa dầu nẵng dãi, trăng mờ soi! Ấy thực quê hương con người ta Dặn bảo trên đường những khách qua: Có tiếng khóc eo thời có thế, Trăm năm ai lại biết ai mà ? 1925 24.CHA TÔI Lê Đạt Đất quê cha tôi đất quê Đề Thám Rừng rậm sông sâu Con gái cũng theo đòi nghề võ Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ đi chăn trâu Phất ngọn cờ lau Vào rừng Na Lương đánh trận Mơ làm Đề Thám Lớn lên, cha tôi đi dạy học Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước Khóc Phan Chu Trinh Như khóc người nhà mình Ôm mộng bôn ba hải ngoại Lênh đênh khói một con tàu Sớm tối ngâm nga mấy vần cảm khái Đánh nhau với Tây Bỏ việc lang thang vào Nam ra Bắc Cắt tóc đi tu nhưng quá nặng nghiệp đời Gần hai mươi năm trời Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng Dạy tôi làm thơ, ước mơ, hi vọng Những câu Kiều say sưa đưa cuộc đời bay bổng Tiếng võng trưa hè mênh mông Phong trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì. Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó Cuộc đời chợ đen chợ đỏ Thù hằn con người "Muốn sống thanh cao đi lên trời mà ở Mày đã quyết kiêu căng Níu lấy cái lương tâm gàn dở Dám không tồi như chúng tao Suốt đời mày sẽ khổ". Quan lại trù cha tôi cứng đầu cứng cổ Người "An Nam" dám đánh "ông Tây" Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày Chửi mèo, mắng chó "Cũng là chồng là con Chồng người ta khôn ngoan Được lòng ông tuần ông phủ Mang tiền về nuôi vợ". Bát đĩa xô nhau vỡ Cha tôi nằm thở dài Cha nhịn đi cho đỡ Anh em tôi, bỏ cơm Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn Trời mùa đông trăng sáng Sao nở như hoa Không biết Ngưu Lang trên kia Có bao giờ cãi Chức Nữ. Rồi cha tôi lui tới nhà quan tuần, quan phủ Lúc về, gặp tôi đỏ mặt quay đi Một hôm, tôi thấy chữ R.O treo ngoài cửa Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa Người còn bận đếm tiền ghi sổ Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ Một mình uống rượu say Ngâm mấy câu Kiều, ôm mặt khóc Tỉnh dậy lại loay hoay ghi sổ đếm tiền Hai vai nhô lên Đầu lún xuống Như không mang nổi cuộc đời Bóng in tường vôi im lặng Ngọn đèn leo leo ánh sáng Bóng với người như nhau Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt Ở chân bàn hay ở cha tôi? Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo. Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo Tàn phá con người. Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh Rũ đầu chết ngạt trong bùn Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng. Cha đã dạy con một bài học lớn Đau thương kiên quyết làm người. Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng. 25.MẸ VÀ QUẢ Nguyễn Khoa Điềm Những mùa quả mẹ tôi hái được Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng Những mùa quả lặn rồi lại mọc Như mặt trời khi như mặt trăng Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên Còn những bí và bầu thì lớn xuống Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi Và chúng tôi, một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh. 26.NÚI MƯỜNG HUNG DÒNG SÔNG MÃ Cầm Giang Anh là núi Mường Hung Em là dòng sông Mã Sông nhiều rêu, nhiều cá Núi nhiều thú, nhiều măng Chiều bóng anh che sông Sớm mắt em long lanh Sáo cành cây ạnh thổi vang lanh lảnh Gió lùa qua miệng anh lại mỉm cười Rộn ràng em thuyền độc mộc ngược xuôi Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi Nếu trời làm em sóng nổi Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba Em là búp bông trắng Anh là ngọn lúa vàng Thi nhau lớn đẹp nương Toả mùi thơm cùng nghe chim hót Em cứ về nhà trước Đợi anh ở bên sông Anh làmno lòng mương Em làm vui ấm bản Nếu con gấu giẫm gãy cành bông trắng Lá lúa anhsẽ cứa đứt chân Nếu lúa này chuột, khỉ dám đến ăn Sợi bông em sẽ bay mù mắt nó Anh là rừng thẳm Em là suối sâu Cây rừng anh làm cầu Bắc ngang lên dòng suối Hoa sim nở đỏ chói Soi bóng xuống lòng em Nếu hùm về, suối em thành thác Nếu sói về, rừng anh sẽ thành chông Quyết chẳng chịu đau lòng Đời chúng ta rừng núi Suối em phá tan bóng tối Rừng anh chặn lại bão dông Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung Em ngoan chảy thành dòng sông Mã. (2-1953) 27.MẮT BUỒN BÙI GIÁNG Bóng mây trời cũ hao mòn Chiêm bao náo động riêng còn hai tay Tấm thân với mảnh hình hài Tấm thân thể với canh dài bão giông Cá khe nước cõng lên đồng Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng Tạ từ tháng chạp quay nghiêng Âm trang sử lịch thu triền miên trôi Bỏ trăng gió lại cho đời Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa Bỏ người yêu bỏ bóng ma Bỏ hính hài của tiên nga trên trời Bây giờ riêng đối diện tôi Còn hai con mắt khóc người một con. 28.HAI SẮC HOA TIGÔN T.T.KH. Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc Tôi chờ người ấy với yêu thương Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng Dải đường xa vút bóng chiều phong, Và phương trời thẳm mờ sương cát, Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng. Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, Thở dài trong lúc thấy tôi vui. Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ, Anh sợ tình ta cũng thế thôi. Thuở đó nào tôi có hiểu gì, Cánh hoa tan tác của sinh ly, Cho nên cười đáp: mầu hoa trắng Là chút lòng trong chẳng biết suy. Đâu biết lần đi một lỡ làng Dưới trời đau khổ chết yêu đương. Người xa xăm quá, tôi buồn lắm Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường. Từ đấy thu rồi thu lại thu, Lòng tôi còn giá đến bao giờ. Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ "Người ấy" cho nên vẫn hững hờ. Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, Ái ân lạt lẽo của chồng tôi, Mà từng thu chết, từng thu chết, Vẫn giấu trong tâm bóng một người. Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ Và đỏ như màu máu thắm phai Tôi nhớ lời người đã bảo tôi, Một mùa thu cũ rất xa xôi. Đến nay tôi hiểu thì tôi đã Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi! Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ, Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu... Gió về lạnh lẽo chân mây vắng, Người ấy ngang sông đứng ngóng đò. Nếu biết rằng tôi đã có chồng, Trời ơi, người ấy có buồn không? Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ, Tựa trái tim phai, tựa máu hồng. |
|