‘Việt Nam vô cùng biết ơn sự hy sinh của liệt sĩ Trung Quốc’ã tàn sát tàn phá quê hương qua cuộc chiến1979
22.02.2021 09:27
Trong khi đó, sự kiện vốn được tường thuật hằng năm lại hoàn toàn vắng bóng trên truyền thông chính thống của Việt Nam gần đây, giữa bối cảnh âm hưởng làn sóng bài Trung vẫn chưa dứt sau các cuộc biểu tình “chưa từng có” diễn ra trên cả nước hồi tháng 6.
Theo tường thuật của Tân Hoa Xã và Đài phát thanh Quốc tế Trung Quốc hôm 2/10, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, Doãn Hải Hồng, đã dẫn đầu một nhóm bao gồm đại diện các công ty Trung Quốc, lưu học sinh và “các đồng chí Việt Nam” đến thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc ở Gia Lâm, Hà Nội, nhân Ngày Liệt sĩ của Trung Quốc (30/9).
“Chúng tôi vô cùng biết ơn sự hy sinh của các liệt sĩ Trung Quốc đã hy sinh mạng sống cho độc lập của Việt Nam và tình hữu nghị quý báu giữa hai nước”, hãng tin chính thức của nhà nước Trung Quốc dẫn lời bà Trần Thị Phương, Phó chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hà Nội, nói.
Quan chức của Việt Nam cho biết chính quyền địa phương cứ khoảng 3-4 tháng lại tiến hành bảo dưỡng nghĩa trang và phần mộ các liệt sĩ Trung Quốc một lần, đồng thời nâng cấp trên quy mô lớn mỗi 3-4 năm để bảo đảm nghĩa trang luôn trong tình trạng tốt đẹp.
Đáp lại, Đại biện lâm thời ĐSQ Trung Quốc Doãn Hải Hồng nói rằng “Sự phát triển hiện tại của mối quan hệ Trung-Việt chứng tỏ là máu của các liệt sĩ Trung Quốc đã không đổ ra vô ích”.
Bà Doãn Hải Hồng-Đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam.
Trong lúc báo chí Trung Quốc “tốn sức” để đưa tin, truyền thông chính thống Việt Nam vài năm gần đây hầu như không đả động gì đến sự kiện này, giữa bối cảnh làn sóng chống Trung Quốc vẫn âm ỉ và bùng lên mỗi khi có sự kiện xung đột giữa hai nước.
TS. Trần Công Trục, nguyên trưởng Ban Biên giới chính phủ Việt Nam, nói trong mối quan hệ với Trung Quốc, các lãnh đạo Việt Nam luôn có chủ trương nhất quán là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, nhưng để thực hiện được chính sách này là một “bài toán khó khăn” trong bối cảnh hiện tại.
“Điều quan trọng là các lãnh đạo Việt Nam phải giữ được nguyên tắc vì lợi ích của đất nước”, TS. Trần Công Trục nói.
Cựu chiến binh Phan Tất Thành, người từng có thời gian học tập ở Trung Quốc, thừa nhận Trung Quốc có những đóng góp nhất định cho Việt Nam trong thời gian chiến tranh, nhưng không hẳn sự giúp đỡ đó đơn thuần chỉ vì “tình hữu nghị” giữa hai nước.
Người cựu chiến binh này nhắc lại những sự kiện như trận chiến Hoàng Sa 1974, cuộc chiến biên giới năm 1979, những diễn biến hiện nay ở Biển Đông và nói rằng: “Cũng có những con người cụ thể, trường hợp cụ thể, hy sinh cụ thể để giúp đỡ Việt Nam, nhưng về sâu xa, không bao giờ Trung Quốc muốn có một Việt Nam độc lập, hùng cường tồn tại bên cạnh Trung Quốc đâu”, ông Thành nói với VOA.
Theo Tân Hoa Xã, khoảng 60 năm trước, đã có hơn 320.000 người Trung Quốc sang giúp Việt Nam “bảo vệ độc lập và lãnh thổ theo yêu cầu của Việt Nam”. Hơn 1.400 người đã hy sinh tại Việt Nam. Trong đó, có 49 liệt sĩ Trung Quốc được an táng tại nghĩa trang Gia Lâm. Họ là thành viên của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, Chi đội hậu cần 1 viện trợ Việt Nam chống Mỹ và nhóm chuyên gia cầu sông Hồng.
Đài phát thanh Quốc tế Trung Quốc nói họ đã “xây dựng lên đài hữu nghị Trung-Việt đời đời bất diệt bằng sinh mạng quý báu của mình”.
Vào trung tuần tháng 6 vừa qua, tại Việt Nam đã nổ ra cuộc biểu tình rầm rộ trên khắp các tỉnh thành để phải đối dự luật Đặc khu vì người dân lo sợ “mất chủ quyền” về tay Trung Quốc một khi các nhà đầu tư nước này đổ vào thuê đất đến 99 năm.
Các nhà phân tích quốc tế cho rằng một phần nguyên nhân khiến số lượng người dân tham gia biểu tình nhiều “chưa từng có” là vì thái độ cảnh giác và cảm xúc bài Trung Quốc đang gia tăng tại Việt Nam.
Áp lực của các cuộc biểu tình đã khiến Đại biện lâm thời Doãn Hải Hồng phải lên tiếng công khai nói rằng nguyên nhân của biểu tình là ở “nội bộ Việt Nam, không liên quan gì đến Trung Quốc”. Đồng thời, bà yêu cầu chính quyền Việt Nam bảo vệ cho các doanh nghiệp và công dân nước này đang ở Việt Nam.
Vì sao Hứa Thế Hữu được chọn làm Tổng chỉ huy quân đội TQ trong Chiến tranh biên giới 1979?
Thủy Thu
Thời điểm đó, Hứa đã 74 tuổi nhưng vẫn được chọn làm tổng chỉ huy phía Trung Quốc trong chiến tranh biên giới Việt -Trung 1979. Theo Phượng Hoàng (Hồng Kông), có ba lý do để Đặng Tiểu Bình đưa ra quyết định này.
Thứ nhất, biên giới phía Bắc Việt Nam tiếp giáp hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc). Quân đội Trung Quốc PLA khi tấn công vào Việt Nam, ngoài điều động quân khu Côn Minh thì binh lực chủ yếu cũng sẽ được huy động từ quân khu Quảng Châu. Khi đó, Hứa Thế Hữu đang là Tư lệnh quân khu Quảng Châu.
Truyền thông Trung Quốc cho hay, Đặng Tiểu Bình đánh giá cao Hứa Thế Hữu
Thứ hai, tác phong quân sự cứng rắn của Hứa được Đặng Tiểu Bình đánh giá cao.
"Sau mười năm trì trệ và hỗn loạn trong Cách mạng Văn hóa, quân đội Trung Quốc bị phá hoại rất nặng nề. Huấn luyện quân sự gần như giậm chân tại chỗ, có cách biệt rất lớn với tư duy quân sự tiên tiến quốc tế, thậm chí đến quân hàm và biên chế cũng lộn xộn.
Đối mặt với một đội quân chưa trải qua đào tạo huấn luyện, Hứa Thế Hữu là một ứng cử viên phù hợp nhất. Nếu tiến hành cuộc chiến này theo các quy tắc thông thường và không có cơ hội thành công, thì chỉ còn trông chờ vào sĩ khí cứng rắn", Phượng Hoàng (Hồng Kông) viết.
Thứ ba, Bắc Kinh cho rằng tình hình quốc tế cực kỳ bất lợi cho nước này bởi hầu hết các nước trên thế giới đều phản đối Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam.
"Theo thống kê của Tân Hoa Xã, trong cuộc chiến này, chỉ có hai nước ủng hộ Trung Quốc, hầu như không có quốc gia trung lập, đại đa số đều ủng hộ Việt Nam.Đến ngay cả nước Mỹ - nước vừa thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, cũng yêu cầu Bắc Kinh rút quân.
Trong bối cảnh đó, Bắc Kinh hy vọng một viên tướng lỗ mãng, tàn bạo nhưng cũng đã từng lập nhiều chiến công như Hứa có thể đè bẹp mọi tiếng nói bất lợi trong quân, thực hiện được âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" của họ để giảm bớt sự bất lợi do bị quốc tế phản đối.
Trong mắt giới lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, Hứa Thế Hữu tuy cục cằn thô lỗ, nhưng vẫn được đánh giá là một mãnh tướng, đã từng đánh thắng nhiều trận quan trọng. Theo tài liệu công khai, Hứa Thế Hữu bắt đầu tham gia Hồng quân từ năm 1925 và gia nhập vào quân đoàn 11 năm 1928.
Vào tháng 7/1933, Hứa giữ chức Phó Tư lệnh Quân đoàn 9 kiêm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 25 Hồng quân Trung Quốc. Sau đó, Hứa giữ chức Phó tư lệnh, Tư lệnh Quân đoàn 4, Tư lệnh kỵ binh Hồng tứ phương diện quân.
Hứa Thế Hữu tham gia xây dựng khu vực căn cứ địa cho Hồng quân Trung Quốc tại các vùng Hà Bắc, Hà Nam, An Huy và tham gia các cuộc đấu tranh vây ráp quân đội Tưởng Giới Thạch ở Tứ Xuyên, Thiên Tây, Giang Tô - gọi tắt là Xuyên-Thiểm-Tô.
Đặc biệt, trong cuộc trường chinh vào cuối tháng 8/1935, quân đội của Mao Trạch Đông bị một đội quân của Quốc dân đảng bao vây tại Cam Nam, Cam Túc. Lúc này, Hứa Thế Hữu nhận mệnh lệnh dẫn một nhánh quân phản kích, giải vậy.
"Hứa Thế Hữu tiếp nhận mệnh lệnh, chỉ huy binh lính và giao chiến với địch trong hai ngày hai đêm, cuối cùng dũng mãnh dùng đao hạ gục quân địch trong 4 giờ đồng hồ. Kết quả, toàn bộ Sư đoàn của Hồ Tôn Nam bị tiêu diệt, đoàn quân của Hứa Thế Hữu chiếm được thị trấn quan trọng Bao Tọa, mở đường thoát lên phía Bắc cho toàn quân", tạp chí Đảng sử bác thái (Trung Quốc) mô tả về chiến dịch nổi tiếng Bao Tọa.
Nhờ những trận chiến như thế mà Hứa thăng tiến rất nhanh. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949, ban đầu, Hứa giữ chức Tư lệnh quân khu Sơn Đông. Tháng 10 cùng năm, Hứa trở thành Phó Tổng tham mưu trưởng Bộ tổng tham mưu PLA. Năm 1955, Hứa là 1 trong 55 tướng lĩnh Trung Quốc được phong hàm Thượng tướng.
Hứa Thế Hữu rất được Mao, Đặng coi trọng.
Tháng 9/1959, Hứa trở thành Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh, Bí thư thứ hai đảng ủy quân khu Nam Kinh. Cuối năm 1973, Hứa là Tư lệnh, Bí thư thứ nhất đảng ủy quân khu Quảng Châu.
Y là viên tướng được cả Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình coi trọng. Vào thời Cách mạng Văn hóa 1967, Hứa Thế Hữu bị đấu tố. Sự việc buộc Hứa phải đi lánh nạn và Mao Trạch Đông đã đích thân cử người đi đón.
Mao coi trọng Hứa một phần vì thành tích, phần khác là vì y cực kỳ trung thành với Mao."Trước Cách mạng văn hóa, Mao Trạch Đông từng nhiều lần hỏi Hứa: "Nếu Trung Quốc xuất hiện chủ nghĩa xét lại thì phải làm sao?". Hứa Thế Hữu khẳng định: "Xuất binh cần vương"
Còn Đặng coi trọng y vì Hứa chính là một trong số những người hoạt động tích cực nhất để khôi phục quyền lực cho ông ta sau Cách mạng Văn hóa.
Chọn một viên tướng tâm phúc như vậy chỉ huy cuộc tấn công xâm lược Việt Nam, Đặng Tiểu Bình hy vọng ông ta có thể hoàn thành kế hoạch mà ông ta gọi là "dạy cho Việt Nam một bài học". Nhưng ông ta đã nhầm.
Rạng sáng ngày 17/2/1979, 9 quân đoàn chủ lực của Trung Quốc đã tấn công ồ ạt vào các tỉnh biên giới Việt Nam.
Trong đó, Hứa Thế Hữu chỉ huy hướng tấn công phía Đông với 6 quân sư đoàn gồm quân đoàn 41, 42, 43, 54, 55 và sư đoàn thiếu, dự bị bổ sung 149 thuộc quân đoàn 50 - thuộc quân khu Thành Đô.
Trước đó, vào sáng ngày 8/1, quân khu Quảng Châu đã hoàn tất công tác chuẩn bị chiến thuật với 4 tập đoàn quân hay còn gọi dã chiến quân, 3 sư đoàn pháo binh mặt đất và 3 sư đoàn pháo binh cao xạ và trung đoàn đường sắt, một trung đoàn thông tin liên lạc, một trung đoàn chống hóa chất, 13 trung đoàn không quân.
Ngoài ra, lính pháo cao xạ và tên lửa đất đối không Trung Quốc cũng đồng thời hoàn thành triển khai chiến thuật. Ngoài ra, hạm đội Nam Hải cũng đã tập hợp hơn 120 tàu chiến và hơn 170 máy bay chiến đấu tại các cảng ở phía Tây thị trấn Xuyên Đảo, tỉnh Quảng Đông.
Trang QQ (Trung Quốc) đưa tin, đội quân do Hứa Thế Hữu chỉ huy dự định sẽ chỉ cần 3-5 ngày để "tiêu diệt quân đội Việt Nam" ở khu vực phía Đông. Hứa từng ngông cuồng chỉ tay trên bản đồ và tuyên bố: "Toàn bộ đều là đồng bằng, xe tăng và đại pháo có thể phát huy được tác dụng nên chỉ cần hai giờ đồng hồ có thể tấn công đến Hà Nội".
Nhưng trên thực tế, đội quân này đã thất bại ê chề và phải rút quân về nước sau một tháng.
Theo đánh giá của một số nguồn thông tin Trung Quốc, dưới sự chỉ huy của Hứa, giai đoạn ngắn ngủi nhưng khốc liệt này được coi là cuộc chiến tàn nhẫn nhất của PLA. Ngày 1/3, khi tấn công ở Lạng Sơn, Hứa tuyên bố: "Sau cuộc tấn công vào sáng sớm nay, Lạng Sơn sẽ trơ trọi không còn một ngôi nhà nào".
10 điều lệnh khắc nghiệt của Hứa bị lên án mạnh mẽ.
Không chỉ tàn nhẫn với người Việt Nam, Hứa Thế Hữu còn ra tay tàn bạo ngay cả với lính dưới quyền. Khi chỉ huy tấn công xâm lược Việt Nam, Hứa ban hành trong quân của y một điều lệnh được gọi là "Thập sát lệnh" (tức 10 điều lệnh vi phạm sẽ bị giết).
"Đầu năm 1979, lực lượng của tôi bị vội vàng điều chuyển từ đồng bằng trung tâm tới biên giới Việt-Trung, tham gia tấn công Việt Nam. Khi tất cả tập hợp ở biên giới, Trương Thế Vĩ - một chỉ huy - đã tuyên bố mười điều kỷ luật chiến trường của Tư lệnh chiến khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu.
Khi đó, tôi là tiểu đội trưởng bộ binh. Dù đã nhiều năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ như in hầu hết nội dung của 10 điều lệnh đó:
Kẻ không xung trận, giết!
Kẻ sợ hãi bỏ trốn khi lâm trận, giết!
Kẻ làm lỡ dở cơ hội chiến đấu, giết!
Kẻ phản bội đầu hàng đối phương, giết!
Kẻ tiết lộ thông tin tình báo, giết!
Kẻ vi phạm kỷ luật chiến trường, giết!
…………
Giết bằng đao!
10 điều kỷ luật vang lên dứt khoát, không nấy một chữ thừa, [cảm giác] không còn đường lùi. Chỉ cần vi phạm 1 điều, anh sẽ chỉ còn đường chết. Hơn nữa còn bị "giết bằng dao".
Khi viên chỉ huy đọc Thập sát lệnh, toàn quân im lặng. Đến khi, trung đội trưởng hô khẩu lệnh: "Bên phải quay, chạy", thì các bước chạy đều trở nên lộn xộn hơn ngày thường. Tôi nghĩ, các binh sĩ vẫn đang bị sốc và chưa kịp bình tĩnh trở lại", một cựu binh chia sẻ với Xilu.
Được biết, ba điều lệnh còn lại là:
"Tù binh không không tuân thủ quy định, giết!
Tù binh bị thương nặng, giết!
Dân thường cản trở quân đội, giết!"
"Thập sát lệnh" tàn bạo này bị chính lính Trung Quốc phản đối, và nó cũng không thể giúp Hứa giành chiến thắng.
Thất bại nặng nề tại mặt trận phía Đông và điều lệ khắc nghiệt trên đã khiến Hứa bị chỉ trích mạnh mẽ. Dư luận Trung Quốc cho rằng, Hứa được trang bị đội quân lớn và mạnh hơn mặt trận phía Tây do Dương Đắc Chí chỉ huy nhưng lại thất bại và chịu phần tổn thất lớn hơn rất nhiều.
Sau khi tấn công vào Lạng Sơn và bị sa lầy ở đây, Hứa buộc phải rút quân về nước. Thời báo Hoàn cầu miêu tả, Hứa đã vô cùng tức giận và đến khi về nước thì không có bất cứ ai trong Bộ chính trị Trung Quốc ra đón.
Cuối cùng, Tập Trọng Huân - bố đẻ của Chủ tịch Trung Quốc đương nhiệm Tập Cận Bình quyết định ra sân bay đón Hứa. Kết quả, vừa xuống máy bay, Hứa Thế Hữu trong cơn tức giận vì thua trận đã mắng mỏ, vung chân múa tay, đẩy ngã Tập Trọng Huân.
Thất bại của Bắc Kinh là điều được báo trước với một cuộc chiến phi nghĩa do nước này phát động.
Chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 là cuộc chiến tranh quy mô lớn cuối cùng mà PLA tiến hành cho đến nay. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa và phía Trung Quốc thường tránh đề cập đến cuộc chiến này trong một thời gian dài.
Vào tháng 1/1988, Thượng tướng Trần Tích Liên, nguyên Tư lệnh Lực lượng pháo binh, nguyên Tư lệnh Đại Quân Khu Thẩm Dương, nguyên Tư lệnh Đại Quân khu Bắc Kinh, nguyên Phó Thủ tướng Trung Quốc đã lên tiếng chỉ trích Hứa Thế Hữu trong cuốn sách "Trong nội bộ đảng cần có người lên tiếng, nói lên sự thật (tạm dịch)".
"Khi tuyên truyền, nên tránh thái quá, vừa phải thì được, nhưng khi tổng kết các cuộc chiến, chúng ta cần thực sự cầu thị, không nên sợ lãnh đạo mà cũng không nên sợ người đã mất [mà lảng tránh, bỏ qua sự thật].
Ví dụ, về mặt trận phía Đông trong cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, bây giờ nói kẻ điên Hứa Thế Hữu là càn quấy, mê muội, nói vậy có đồng chí nào phản đối không?
Ba quân đoàn, mười mấy sư đoàn, 60% là quân bộ binh cơ giới, khi tấn công sâu sang phía đối phương thì không thế đấu lại tuyến phòng ngự của họ, cuối cùng lại bị phản công, thảm bại.
Đây gọi là đánh trận kiểu gì vậy? Là vỡ trận, là trận đánh ngu xuẩn, hồ đồ! Nói câu khó nghe thì, có bị súng đạn trực tiếp bắn chết, cũng không oan".
Chiến tranh biên giới 1979: Tư lệnh TQ trụy tim sau 7 ngày gây chiến với VN, bí mật chạy về Bắc Kinh
Hải Võ - Đồ hoạ: Mạnh Quân |
3
Với việc nhậm chức tư lệnh Quân khu Côn Minh, Dương Đắc Chí trở thành chỉ huy mặt trận phía Tây của Trung Quốc (hướng đánh từ Vân Nam) trong cuộc xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam nổ ra ngày 17/2/1979, song song với hướng phía Đông do tư lệnh quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu điều khiển.
Tờ Nhân dân Nhật báo - cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc - nói rằng tướng Vương Tất Thành trước đó đã dành toàn bộ thời gian 2 tháng cuối năm 1978 để cùng các thuộc cấp ở Côn Minh chuẩn bị cho các kế hoạch tác chiến quân sự khi xâm lược Việt Nam.
Việc lâm trận thay tướng trong thời điểm này không chỉ bị cho là phạm vào đại kỵ của nhà binh, mà còn nằm ngoài sức tưởng tượng của rất nhiều người.
Dương Đắc Chí thời kỳ tham gia Hồng quân Trung Quốc (Ảnh: Sohu)
Ngày 31/12/1978, Dương Đắc Chí - thượng tướng, Ủy viên Quân ủy trung ương ĐCSTQ - đang họp tại bắc Kinh thì nhận được thông báo đột xuất của Quân ủy yêu cầu họp khẩn trong đêm tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh, và nhận được lệnh điều động chức vụ như trên.
Sáng sớm 1/1/1979, Dương lần lượt tìm gặp 4 nguyên soái Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Lưu Bá Thừa - các Phó chủ tịch Quân ủy trung ương - để báo cáo.
Ngày 2/1, Dương đến thăm Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân (PLA) Dương Dũng - khi ấy là cánh tay phải của Tổng tham mưu trưởng Đặng Tiểu Bình trong công việc thường ngày tại Bộ tổng tham mưu, cơ quan lên kế hoạch và trực tiếp chỉ huy hoạt động quân sự trong cuộc xâm lược.
Dương Dũng tuyên bố Bộ tổng tham mưu "toàn lực ủng hộ" Dương Đắc Chí.
Ngày 3/1, Dương ngồi chuyên cơ trở về bàn giao công việc tại quân khu Vũ Hán. Đến sáng 7/1, Dương tới quân khu Côn Minh, chính thức bàn giao chức vụ với Vương Tất Thành, bắt đầu nhận các báo cáo đầu tiên về kế hoạch chuẩn bị xâm lược Việt Nam.
Dương Đắc Chí (1910-1994), người Hồ Nam. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập (1949) từng giữ nhiều chức vụ như tư lệnh các quân khu Tế Nam, Vũ Hán, Côn Minh, Thứ trưởng quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng, Phó chánh văn phòng Quân ủy, Ủy viên Quân ủy...
Ngày 1/10/1953, Dương Đắc Chí dẫn đầu đoàn đại biểu Chí nguyện quân (tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên) về nước dự kỷ niệm 4 năm Quốc khánh Trung Quốc. Trên lễ đài, Mao Trạch Đông giới thiệu với các lãnh đạo Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Đổng Tất Vũ,...: "Người này là Dương Đắc Chí, đoàn trưởng Hồng nhất đoàn (*) trong chiến dịch vượt sông Đại Độ, nay là Phó tư lệnh Chí nguyện quân, trợ thủ của Bành Đức Hoài."
(*) Ngày 29/9/1927, Mao Trạch Đông dẫn quân khởi nghĩa Thu Thâu đến thôn Tam Loan, huyện Vĩnh tân, tỉnh Giang Tây, tại đây thực hiện "cải tổ Tam Loan" trong lịch sử quân đội Trung Quốc, trong đó Hồng nhất đoàn là binh đoàn Số 1 thuộc Sư 1, Quân đoàn 1 của Quân cách mạng công nông Trung Quốc. Đến năm 1985, Hồng nhất đoàn đưa về trực thuộc Sư pháo binh số hóa Số 1 của PLA).
Đến năm 1954, Dương được bổ nhiệm làm Tư lệnh Chí nguyện quân thay Bành Đức Hoài.
Tư liệu của Nhân dân Nhật báo viết, Dương Đắc Chi 8 tuổi theo cha học rèn, 11 tuổi đi thả trâu thuê kiếm tiền, 14 tuổi làm thợ mỏ, 16 tuổi làm tiều phu - có khả năng vác 80kg hàng hóa đi chân trần di chuyển tới 25km.
Tháng 2/1928, Dương tham gia Quân cách mạng công nông, từ 1930 giữ nhiều chức vụ cao của Soviet Trung ương - căn cứ địa cách mạng Trung Quốc. Dương làm đến sư đoàn trưởng và được Mao Trạch Đông nhiều lần tán thưởng.
Các chiến dịch vượt sông Đại Độ, Bình Hình Quan, Thượng Cam Lĩnh,... đều ghi nhận công tích của Dương, đưa Dương thành một trong số ít tướng lĩnh thực chiến nổi tiếng nhất trong quân đội Trung Quốc với hơn 3.000 chiến dịch lớn nhỏ đã tham gia.
Nhân dân Nhật báo cho hay, sau khi kháng chiến chống Nhật nổ ra, Dương trở thành đoàn trưởng Binh đoàn 685 thuộc Sư 115 Bát lộ quân, tham gia "tiêu diệt 1.000 quân địch" trong chiến dịch Bình Hình Quan.
Mùa thu năm 1947, Dương Đắc Chí chỉ huy Dã chiến quân Tấn-Sát-Ký (chỉ các tỉnh Sơn Tây-Sát Cáp Nhĩ-Hà Bắc, Trung Quốc) bao vây thị trấn Từ Thủy, phía bắc thành phố Bảo Định, Hà Bắc, đồng thời tham gia chiến dịch Thanh Phong Điếm "loại bỏ 1.7 vạn quân thuộc Quân đoàn 3 Quốc dân đảng".
Sau chiến tranh Triều Tiên, lý lịch của Dương Đắc Chí là chuỗi dài những tháng ngày ổn định và xa rời chiến sự. Được phong hàm thượng tướng vào tháng 4/1955, Dương trở thành tư lệnh Quân khu Tế Nam.
Từ năm 1969, Dương làm Ủy viên Quân ủy trung ương, Bí thư thứ nhất tỉnh ủy Sơn Đông, tư lệnh Quân khu Vũ Hán. Dương Đắc Chí duy trì ổn định chức vụ này trong suốt 10 năm, cho đến khi nhận mệnh lệnh bất ngờ ra tiền tuyến trong cuộc xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam.
Thời điểm 1978-1979, trong số thập đại nguyên soái Trung Quốc còn tại nhiệm có 4 người: Diệp Kiếm Anh (81 tuổi), Từ Hướng Tiền (77 tuổi), Lưu Bá Thừa (86 tuổi), Nhiếp Vinh Trăn (79 tuổi). Nhóm khai quốc công thần này "thâm căn cố đế" trong các vị trí quyền lực nhất của Quân ủy từ 16 đến 20 năm, nhưng tuổi tác quá lớn không cho phép họ nắm giữ vai trò chỉ huy quân sự của cuộc chiến.
Trong số các đại tướng Trung Quốc cũng ghi nhận 4 nhân vật: Túc Dụ (71 tuổi), Hoàng Khắc Thành (76 tuổi), Đàm Chính (72 tuổi), Tiêu Cần Quang (75 tuổi) - trong đó chỉ có Túc Dụ làm Ủy viên thường vụ Quân ủy trung ương. Ngoài ra có 57 tướng lĩnh cấp trung tướng, thượng tướng khác.
Tướng Vương Tất Thành, tiền nhiệm của Dương tại quân khu Côn Minh, là một trong những tướng lĩnh thân tín của đại tướng Túc Dụ - người được cho là giữ lập trường không tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam khi kế hoạch được biểu quyết ở Quân ủy trung ương.
Dương Đắc Chí (phải) chỉ huy ở tiền tuyến trong giai đoạn làm Phó tư lệnh Chí nguyện quân Trung Quốc can thiệp chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) (Ảnh: Sohu)
Phân tích trên trang Đa Chiều cho rằng đây là một phần nguyên nhân khiến Túc Dụ bị làm mờ nhạt vai trò trong hoạt động chỉ huy quân sự khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam, dù tướng này vẫn là thành viên Quân ủy. Vương Tất Thành cũng bị loại khỏi cuộc chiến chỉ trước hơn 1 tháng, bất chấp thực tế Vương am hiểu lực lượng quân khu Côn Minh nhờ kinh nghiệm làm việc tại đây từ năm 1969 ở chức Phó tư lệnh.
Túc Dụ, dù từng giữ chức Tổng tham mưu trưởng trong quá khứ và có kinh nghiệm chỉ huy quân sự cấp cao, đã không còn giữ được tiếng nói mạnh trong PLA từ sau khi bị đấu tố năm 1958 tại hội nghị nguyên soái mở rộng, khiến Túc mất chức và bị giáng thành Thứ trưởng quốc phòng, Phó viện trưởng Viện khoa học quân sự Trung Quốc.
Hứa Thế Hữu (74 tuổi) và Dương Đắc Chí (70 tuổi) dường như là những lựa chọn số ít hội đủ điều kiện làm chỉ huy tiền tuyến của quân đội Trung Quốc thời điểm đó: Có kinh nghiệm trận mạc, mang hàm thượng tướng, là thành viên Quân ủy trung ương, và trung thành với Đặng Tiểu Bình.
Trần Tích Liên, sinh năm 1915, một tướng lĩnh trẻ hơn và là tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, thì ủng hộ Chủ tịch đảng Hoa Quốc Phong và Phó chủ tịch Uông Đông Hưng, không ủng hộ Đặng Tiểu Bình nắm quyền lực lớn trong đảng.
Xâm lược Việt Nam là cuộc chiến tranh đầu tiên PLA tổ chức hành động quân sự quy mô lớn ở khu vực địa hình đồi núi và rừng rậm nhiệt đới.
Trung Quốc không có nhiều kinh nghiệm trước đó trên loại địa hình này, khiến công việc của Dương Đắc Chí được mô tả là rối như tơ vò, dù theo nhiều tư liệu tại Trung Quốc, Dương được cho là đã có cơ hội đến Việt Nam trong giai đoạn Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ vào thập niên 1960 và có sự am hiểu nhất định đối với địa hình cũng như tình hình quân sự khu vực phía Bắc Việt Nam.
Dương Đắc Chí tháp tùng Mao Trạch Đông trong một lần thị sát quân đội (Ảnh: Sohu)
Sau khi đến Quân khu Côn Minh ngày 7/1/1979, hôm sau Dương dẫn theo các chỉ huy quân khu liên tục đi khảo sát địa hình các địa điểm công kích, lên phương án tấn công, sửa kế hoạch tác chiến, hoạt động hết sức căng thẳng.
Ngày 14/1, Dương tháp tùng các Phó tổng tham mưu trưởng Dương Dũng, Hà Chính Văn đi dò xét tình hình biên giới, sẵn sàng cho cuộc xâm lược.
Ngày 17/2, hàng trăm nghìn quân Trung Quốc ồ ạt tràn sang xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta theo hai hướng Quảng Tây, Vân Nam.
Sau ngày mở mànchiến tranh biên giới 1979, Dương Đắc Chí ngày đêm quan sát chiến sự, tính toán hoạt động điều phối binh lực. Nhân dân Nhật báo cho hay, Dương vốn có bệnh dạ dày nghiêm trọng, hoạt động quân sự cao độ và căng thẳng mệt mỏi trong nhiều ngày, cộng thêm độ cao của các vùng núi biên giới hai nước, viên tướng già 70 tuổi đã gục ngã.
Đêm ngày 25/2, Dương Đắc Chí liên tục bị đi ngoài ra máu. Đến sáng sớm ngày 26, do mất máu quá nhiều, Dương rơi vào tình trạng suy tim, được bác sĩ chẩn đoán nghiêm trọng.
Ngay sáng 26, Quân ủy trung ương Trung Quốc phái nhóm chuyên gia của bệnh viện 301 Quân giải phóng ngồi chuyên cơ khẩn cấp đến Vân Nam, bí mật đưa Dương Đắc Chí về Bắc Kinh cứu chữa. Ngày 27, Dương mới tạm thời ổn định, chưa qua thời kỳ nguy hiểm.
Chỉ một tuần sau khi phát động xâm lược Việt Nam, "chiến tướng" Dương Đắc Chí đã gần như bị loại khỏi cuộc chiến và chỉ nhận báo cáo từ... giường bệnh. Quyền chỉ huy Quân khu Côn Minh được giao cho hai Phó tư lệnh Trương Tha Tú, Tra Ngọc Thăng.
Ngày 5/3, Trung Quốc ra lệnh rút toàn bộ binh lực xâm lược Việt Nam về nước.
Dù chỉ chỉ huy thực tế chiến tuyến phía Tây được hơn 40 ngày (tính từ 7/1), và chỉ hơn 7 ngày chiến sự thực tế, nhưng sau này khi Trung Quốc "luận công" cho các tướng lĩnh xâm lược này, Dương vẫn được "ban thưởng" làm Tổng tham mưu trưởng quân đội, thay vị trí của Đặng Tiểu Bình, trong khi Đặng đã kiểm soát được quyền lực tuyệt đối trong đảng.
Trên thực tế, quân đội Trung Quốc - ở cả hai chiến tuyến của Dương Đắc Chí và Hứa Thế Hữu -đã bị thiệt hại hết sức nặng nề khi tấn công xâm lược Việt Nam và vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ của quân và dân ta. Trong đó, PLA có 9 quân đoàn chủ lực bị tổn thất, 62.500 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt hoặc thiệt hại nặng, 550 xe quân sự bị phá hủy - trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, 115 khẩu pháo và cối hạng nặng bị phá hủy...
Trang quân sự Xilu (Trung Quốc) bình luận, trong vấn đề thương vong, do chiến tuyến phía Đông của Hứa Thế Hữu bị tổn thất chiếm tỉ lệ quá lớn so với phía Tây, thậm chí xuất hiện tình huống toàn đơn vị bị bắt sống. Cũng nhờ "thành tích" thương vong ít hơn Hứa, Dương Đắc Chí mới được làm Tổng tham mưu trưởng, Phó chánh văn phòng Quân ủy.
“Ma Chiến Hữu” trong cuộc chiến biên giới 1979
Cuốn tiểu thuyết “Ma Chiến Hữu” của nhà văn quân đội Trung Quốc, Mạc Ngôn, được dịch sang tiếng Việt, được xuất bản và lưu hành tại Việt Nam, đã và đang gây nên những tranh luận trong giới blogger Việt Nam.
Hình đăng trên bài báo của Huy Đức trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị (đã bị gỡ xuống). Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên hoang vắng, quạnh quẽ.
Photo by Lê Quang Nhật
“Ma Chiến Hữu” có tựa đề tiếng Trung là “Chiến Hữu Trùng Phùng,” dịch giả Trần Trung Hỷ, do Văn Học xuất bản và công ty văn hóa Phương Nam phát hành, với nội dung liên quan đến cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979.
Những tranh luận của một số blogger Việt Nam trên Internet cho thấy, đã và đang có những tiếp cận cũng như quan điểm khác nhau của độc giả Việt Nam đối với một tác phẩm do tác giả Trung Quốc viết về một cuốc chiến cách đây 30 năm giữa 2 quốc gia.
Có những người phản đối mạnh mẽ việc xuất bản một tác phẩm như “Ma Chiến Hữu,” vì làm như thế là “ca ngợi những kẻ thù đã xâm lược, giết hại đồng bào của mình.”
Cũng có lý lẽ cho rằng, “Ma Chiến Hữu” là một cuốn sách hay, “đề cập tới thân phận của những người lính Trung Quốc tham chiến tại Việt Nam … mà không biết rõ lý do tại sao lại tham chiến.”
Ở một khía cạnh khác, các blogger Việt không đồng ý với một câu được đăng trên bìa sau của tác phẩm “Ma Chiến Hữu.” Lời ấy là: tác phẩm đưa đến “một cách nghĩ khác về chiến tranh, một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng, cuộc đối thoại giữa hai cõi âm dương, sự vướng luỵ giữa con người và ma quỷ.”
Blogger “Người Buôn Gió” trích một đoạn từ tác phẩm và đăng lên Internet: “Chúng ta hy sinh vinh quang, quá khứ của chúng ta là vinh quang, lúc này cũng vinh quang, tương lai cũng vinh quang. Bất kỳ sự hoài nghi nào về vinh quang của chúng ta đều là sai lầm, những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng.”
Kinh hoàng Ma Chiến Hữu
“Người Buôn Gió” mạnh mẽ chỉ trích việc xuất bản “Ma Chiến Hữu” tại Việt Nam. Tác giả này viết trên blog riêng, thổ lộ sự “kinh hoàng” sau khi “đọc vài trang của cuốn sách này.”
“Khi đọc vài trang cuốn sách này tôi thực sự kinh hoàng. Có lẽ nào nhà xuất bản Văn Học lại cho ra một cuốn sách ca ngợi những kẻ thù đã xâm lược, giết hại đồng bào của mình.
Trong cuốn sách có những trang mà quân Trung Quốc chúc nhau giết được nhiều địch để rạng danh quân đội anh hùng. Kẻ địch trong cuốn sách này nói chính là những người lính quân đội nước CHXHCNVN.
blog Người Buôn Gió
Trong cuốn sách có những trang mà quân Trung Quốc chúc nhau giết được nhiều địch để rạng danh quân đội anh hùng. Kẻ địch trong cuốn sách này nói chính là những người lính quân đội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng sự thực thì vẫn là sự thực.”
Tác giả viết tiếp, là từ lâu rồi, “truyền hình Việt Nam chiếu những bộ phim dài ca ngợi vua quan Trung Quốc tài giỏi, hào hiệp, như Càn Long, Ung Chính, vân vân, và ngày một tiến bước, gần đây trong nền văn hoá Việt Nam trực tiếp công khai ca ngợi những tên xâm lược, giết người Việt Nam thời hiện tại.”
Tác giả đặt câu hỏi, “không thể nói là họ vô tình để lọt những bài báo, tác phẩm như thế này. Nếu chúng ta được biết rằng những cây bút viết về chiến tranh Nam - Bắc trước 1975 ở Việt Nam hiện nay khó lòng mà xuất bản tác phẩm của họ.”
Hồn ma tử sĩ
Những độc giả khác tiếp cận “Ma Chiến Hữu” ra sao?
Blogger tên Linh viết rằng, tác giả đã “đọc cuốn này sau khi được biết rằng cuốn này đề cập tới số phận những người lính Trung Quốc trong chiến tranh Việt - Trung 1979,” tác giả “nghĩ một cuốn sách đề cập tới một cuộc chiến tranh với góc nhìn từ phía bên kia sẽ gợi mở nhiều điều thú vị” và tác giả “tìm đọc cuốn này cũng như trước kia từng tìm đọc các cuốn “The Quiet American” của Graham Greene, “The Things They Carried”của Tim O'Brien hay “Tree of Smoke” của Denis Johnson, hoặc xem các phim “Trung Đội,” “Trời và Đất,” “Rambo,” “Apocalypse Now,” “Full Metal Jacket,” vân vân. Blogger Linh viết tiếp, rằng “chủ đề cơ bản của cuốn sách này là phản chiến.”
Trong truyện có đoạn các hồn ma tử sĩ Trung Quốc khóc than đau đớn khi biết tin Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ và họ cảm thấy rằng cái chết của họ là vô nghĩa.
Blogger Linh
“Nhìn chung, tôi nghĩ “Ma Chiến Hữu” là một cuốn sách hay. Cuốn sách đề cập tới thân phận của những người lính Trung Quốc tham chiến tại Việt Nam.
Họ đều là những thanh niên nông thôn nghèo thất học. Họ tham chiến mà không biết rõ lý do tại sao lại tham chiến, chỉ đơn giản là bị bắt lính và đi lính thì đỡ miệng cơm ở nhà, nếu chết trận thì gia đình ở nhà cũng được một khoản tử tuất còm.
Ảnh cùa Lê Quang NhậtPhoto courtesy of Osin's blogĐến khi kết thúc chiến tranh thì kẻ còn, người mất, những kẻ sống sót cũng có số phận mạt rệp, nghèo khổ, cùng quẫn, chịu ảnh hưởng bởi di chứng chiến tranh. Không những thế, họ còn bị chính quyền và nhân dân lãng quên.
Trong truyện có đoạn các hồn ma tử sĩ Trung Quốc khóc than đau đớn khi biết tin Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ và họ cảm thấy rằng cái chết của họ là vô nghĩa.”
Tranh luận Ma Chiến Hữu
Có hai khuynh hướng cảm nhận khác nhau, và qua đó có 2 quan điểm khác nhau về việc cho xuất bản tác phẩm “Ma Chiến Hữu” tại Việt Nam. Tuy nhiên, cả 2 khuynh hướng này có một điểm chung, là chỉ trích lời giới thiệu đăng trên bìa sau của ấn bản lưu hành tại Việt Nam.
Blogger Linh viết, là tác giả “có thể hiểu sự phẫn nộ của nhiều người đọc với những người chịu trách nhiệm trong việc dịch và in cuốn “Ma Chiến Hữu” ra tiếng Việt.”
Tuy nhiên, tác giả “không cho rằng cuốn sách này là một cuốn ca ngợi chủ nghĩa anh hùng như lời viết của nhà xuất bản Văn Học ở bìa 4.
[Đó] không phải là ca ngợi mà là sự nhạo báng, lên án của một nhà văn quân đội Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh vô nghĩa, vô lý và không cần thiết.
Với những người lính Tàu sống hay chết tại cuộc chiến thì Mạc Ngôn có một sự cảm thông sâu sắc, nhưng cái khiến tác phẩm sống động cũng không phải là ở “chủ nghĩa anh hùng” mà là ở tình đồng đội.”
Lâu nay, những người mần công tác xuất bản ở Việt Nam cứ luôn muốn định hướng người đọc, giờ với “Ma Chiến Hữu,” họ cũng làm điều tương tự. Nhưng vô hình trung, hành động của họ lại tung hô kẻ địch.
Mr. Do
Một bài viết khác trên blog của tác giả Mr. Do, với nội dung cẩn trọng, có thể được hiểu rằng, tác giả khuyên người đọc bình tĩnh, đừng tự để mình rơi vào vị trí của những cơ quan kiểm duyệt kiểu Ban Tuyên Giáo tại Việt Nam.
Mr. Do viết rằng “Một điều không thể chấp nhận được nữa là cách giới thiệu của nhà xuất bản nọ trên cuốn “Ma chiến hữu.”
Lâu nay, những người mần công tác xuất bản ở Việt Nam cứ luôn muốn định hướng người đọc, giờ với “Ma Chiến Hữu,” họ cũng làm điều tương tự.
Nhưng vô hình trung, hành động của họ lại tung hô kẻ địch, vô tình cổ súy cho những “giá trị” (như họ tưởng) mà ngay cả đến Mạc Ngôn cũng không muốn thể hiện.”
Xuất bản ở Việt Nam?
Tác giả Mr. Do cũng đặt ra một vấn đề khác, khá bất ngờ khi bàn về tác phẩm “Ma Chiến Hữu,” đó là: tại sao trong khi tác phẩm với nội dung có thể gây đụng chạm như vậy được đường đường chính chính xuất hiện ở Việt Nam, thì hàng loạt cuốn truyện khác của chính người Việt Nam - với tinh thần tố cáo chiến tranh - lại không được phép xuất bản?
Tuyển tập “Rồng Đá” của tác giả Vũ Ngọc Tiến và Lê Mai là ví dụ gần nhất, theo cả 2 nghĩa nội dung và thời điểm.
Tác phẩm “Rồng Đá,” với một truyện ngắn liên quan đến đề tài cuộc chiến Việt – Trung năm 1979, đã bị cấm lưu hành, Nhà Xuất Bản Tổng hợp Đà Nẵng thì bị tạm đình chỉ hoạt động, giám đốc và phó Giám Đốc thì bị tạm đình chỉ công tác.
Truyện ngắn “Chù Mìn Phủ và Tôi” là 1 trong 3 truyện ngắn khiến tác phẩm gặp rắc rối. Và tác phẩm này, theo như nội dung bức thư mà tác giả Vũ Ngọc Tiến gởi nhà xuất bản Đà Nẵng, thì truyện ngắn “Chù Mìn Phủ và Tôi” đề cập đến cuộc chiến biên giới phía Bắc (1979) đã “lùi vào dĩ vãng ¼ thế kỷ rồi.
Nó là cuộc chiến phi lý nhất trong thế kỷ XX đối với cả 2 dân tộc mà cả ta và phía bên kia đều phải nghiêm túc nhìn ra nó cần phải tránh và hoàn toàn có thể tránh được.”
Nhiều nhà văn Trung Quốc khi viết tiểu thuyết đã từng có đoạn nhắc tới cuộc chiến biên giới Việt - Trung với tâm trạng dày vò sâu sắc. Họ viết được, sao ta lại cứ tự hù dọa mình để rồi tảng lờ, không dám viết?
Vũ Ngọc Tiến
Xin kết thúc bài viết này bằng một lời trong bức thư mà tác giả Vũ Ngọc Tiến gởi nhà xuất bản Đà Nẵng, đó là “nhiều nhà văn Trung Quốc khi viết tiểu thuyết đã từng có đoạn nhắc tới cuộc chiến biên giới Việt - Trung với tâm trạng dày vò sâu sắc. Họ viết được, sao ta lại cứ tự hù dọa mình để rồi tảng lờ, không dám viết?”
Ông nói, không thể bình thản coi cuộc chiến Việt – Trung năm 1979 như “một vụ va quẹt xe trên đường mà phải tỉnh táo và sòng phẳng với lịch sử.”
------------------
Trên đây là những ghi nhận từ các blog cá nhân liên quan đến tác phẩm “Ma Chiến Hữu,” một tiểu thuyết của một nhà văn Trung Quốc, viết về cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979 và hiện đang được phát hành tại Việt Nam.
Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, sàng lọc và gởi đến quí vị những hình thức thông tin trên Internet, trong các trang Blog cá nhân liên quan đến nhiều đề tài khác nhau và gởi đến quí vị
Đã có những hy sinh không được thừa nhận
Nếu có dịp hỏi những người Việt Nam đang sống trong nước, ngày 2-9 là ngày gì; ngày 30-4 là ngày gì? Chắc hẳn, nhiều người có thể trả lời được ngay những sự kiện đã xảy ra vào thời điểm ấy ở một năm nào đó trong lịch sử.
Thiện Giao, phóng viên RFA
Hình đăng trên bài báo của Huy Đức trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị (đã bị gỡ xuống). Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên hoang vắng, quạnh quẽ.
Photo by Lê Quang Nhật
vtgiao021709.mp3
00:00/08:42
Và những thế hệ tiếp theo của Việt Nam, có thể sẽ còn có cơ hội nhớ nhiều hơn thế nữa. Chẳng hạn, theo tin tức từ báo chí trong nước, thì “chương trình giáo dục mầm non” được Bộ Giáo Dục đưa ra lấy ý kiến, và sẽ giảng dạy trong năm 2009 cho trẻ em từ 3 đến 6 tuổi, có yêu cầu là “trẻ em từ 4 đến 5 tuổi phải nhận ra hình ảnh Bác Hồ… thích và thuộc một số bài hát, bài thơ về Bác.”
Nhưng, sẽ có những ngày, những thời điểm trong lịch sử, mà các thế hệ đi sau phải tranh đấu, mới có thể, hoặc có quyền, được nhớ.
17 tháng Hai là một ngày như vậy!
TQ xua quân xâm chiếm VN
Vâng, 17 tháng Hai là một ngày như vậy.
Ngày này, tháng này, của năm này sẽ là thời điểm đánh dấu 30 năm một sự kiện xảy ra nơi vùng biên giới.
Hãy nghe nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kể lại ngày ấy, “30 năm trước, lửa đã chảy và máu đã đổ…”
“…Nhớ thời Trung Quốc nổ súng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta vào ngày 17 tháng Hai, 1979 người chết như rạ mà buồn.
Hồi đó, sau cái đêm đại họa láng giềng đó, tôi viết một bài thơ ca ngợi người lính của ta chiến đấu chống bành trướng nơi biên giới đưa ngay cho báo Văn Nghệ lên trang rồi cùng Chu Lai đeo ba lô và súng ngắn ra ga Hàng Cỏ lên Cao Bằng.
Chúng tôi đi ngược dòng người gồng gánh trẻ con chạy giặc. Hai bên đường đỏ loét hầm ếch khoét vào núi. Đói và rét. Cầu sông Bằng bị đánh sập.
Ảnh cùa Lê Quang NhậtPhoto courtesy of Osin's blogThị xã Cao Bằng chỉ còn đống đổ nát, các cột điện cao thế bị bộc phá đánh gục, xác người chết còn cuốn trong giây điện. Ruồi nhặng nhiều như trấu vì xác chết của người và súc vật. Hễ đưa máy ảnh lên là ruồi nhặng bu kín ống kính. Tôi phải dùng cành cây xua đưổi ruồi nhặng cho phóng viên nước ngoài quay phim...”
Nguyễn Trọng Tạo viết tiếp, rằng ông đã “đi và viết về những người dân, người lính anh hùng trụ lại chống trả bọn xâm lược để giữ vững biên cương Tổ Quốc.” Ông viết trên blog riêng của mình, rằng sau này bài thơ ông làm “vẫn còn đau đáu nỗi đau từ tháng Hai năm ấy.”
“Thời tôi sống thêm một lần súng nổ Trái tim đau rỏ máu dọc biên thùy...”
Và đây, ký ức Nguyễn Trọng Tạo về tháng Hai năm ấy.
“Sau cái bắt tay xòe một lưỡi dao găm Kẻ tình nguyện giữ nhà muốn chiếm nhà ta ở Tấm ảnh Mao treo lẫn màu cờ đỏ Tay ta treo đâu nghĩ có một lần Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng Nhận ra chúa chỉ ghép bằng đất đá Thời tôi sống thêm một lần súng nổ Trái tim đau rỏ máu dọc biên thùy...”
Biên giới tháng Hai
Nguyễn Trọng Tạo đề cập đến bài thơ, nhắc đến cái ngày “đeo ba lô và súng ngắn ra ga Hàng Cỏ lên Cao Bằng” nhân dịp có một ai đó đã nhắc lại cái ngày 17 tháng Hai cách đây 30 năm.
Nhà báo Huy Đức đã nhắc đến ngày ấy, với tựa đề “Biên Giới Tháng Hai, 2009-1979.” Bài viết này đã được đăng trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị, trên báo in cũng như trên trang mạng của tờ báo.
Những thông tin sau đó truyền đi trên thế giới ảo cho biết bài viết đã bị lấy xuống. Tờ Sài Gòn Tiếp Thị không cho biết lý do. Và người ta cũng không thấy có lý do gì để tờ báo tự lấy bài viết này xuống.
Tác giả Huy Đức mở đầu bài viết:
“Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi.
Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”.
Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.”
Tác giả kể tiếp, rằng từ ngày 17 tháng Hai đến 5 tháng Ba, năm 1979, cuộc chiến 16 ngày đã để lại một Lào Cai, một Sapa, một Đồng Đăng, một Lạng Sơn… bị phá tan hoang, và rằng:
“Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện.
Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai.
Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.”
Hy sinh trong ngậm ngùi!
Trong một bài viết khác, được đăng tải trên rất nhiều trang mạng, trang blog trong và ngoài nước, tác giả Hoàng Kim Phúc, đang theo học chương trình hậu tiến sĩ tại đại học Oxford, viết rằng năm anh lên chín, “Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.”
Một cuộc chiến kéo dài chưa đầy 30 ngày “mà gần một trăm ngàn người của cả hai phía đã thương vong.” Tác giả kể tiếp:
“Mặc dù cuộc chiến đẫm máu chính thức diễn ra khá ngắn ngủi nhưng những đợt pháo kích dai dẳng dọc tuyến biên giới, kéo dài nhiều năm sau đó mới để lại những “vết thương” khó lành trong kí ức đương đại của dân chúng Việt Nam, đặc biệt là dân miền Bắc.
Làng tôi sống khi ấy gồm ba xóm, nay thuộc quận Ba Đình, vậy mà cũng có tới hai anh đi bộ đội bị pháo chết trên “chốt”.
Từ “lên chốt” đã có lúc được nhiều thanh niên nhắc tới như “ác mộng”. Dù mục tiêu chiến lược của việc tấn công Việt Nam vẫn còn nhiều uẩn khúc lịch sử nhưng về mặt nào đó Trung Quốc đã thành công trong việc gây nên một tâm lý lo lắng bất ổn, pha sự sợ hãi trong các thành phần dân chúng Việt Nam.”
Trở lại với tác giả Huy Đức. Vào thời điểm truy cập vào blog của tác giả này, chúng tôi lại thấy một bài viết khác, có vẻ như là bài tiếp theo của “Biên Giới Tháng Hai, 2009-1979” đã bị “đục bỏ” trên trang web của báo Sài Gòn Tiếp Thị.
Trong bài thứ hai này, tác giả ghi thêm bên dưới: “bài này chưa đăng báo giấy.” Có nghĩa là sao? Chỉ suy đoán thôi, bài viết thứ hai này, với tựa đề “Cuộc Chiến 1979 và Hoàng Sa” rất có thể sẽ không được đăng trên báo giấy!
Dù sao, blog cũng là một nơi chuyển tải thông tin!
Chắc hẳn tác giả Huy Đức có những ngụ ý khi cho gắn cuộc chiến 1979 vào với địa danh Hoàng Sa. Quả vậy, tác giả viết ở đoạn cuối bài trên blog của anh:
“Tôi công bố bài viết này không chỉ vì sắp đến ngày 17-2 mà còn vì, muốn lưu ý, “người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán,” không nên đặt cuộc chiến tranh 17-2 ra ngoài âm mưu Biển Đông. Bản Giốc, Tục Lãm… giờ đã xong; nhưng, Hoàng Sa, Trường Sa thì vẫn đó.”
Nếu có dịp hỏi những người Việt Nam đang sống trong nước, ngày 2 tháng Chín là ngày gì; ngày 30 tháng Tư là ngày gì? Chắc hẳn, nhiều người có thể trả lời được ngay những sự kiện đã xảy ra vào thời điểm ấy ở một năm nào đó trong lịch sử.
Nhưng sẽ có những ngày, những thời điểm trong lịch sử, mà các thế hệ đi sau phải tranh đấu, mới có thể, hoặc có quyền được nhớ.
17 tháng Hai là một ngày như vậy!
“Chỉ có một điều ngậm ngùi,” một nhà báo Việt Nam nói với chúng tôi. “Đó là, 30 năm trước, một thế hệ thanh niên Việt Nam lao về biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Bây giờ, 30 năm sau, họ không được nhắc tới; và những người khác cũng không được quyền nhắc đến họ, như thể họ chưa hề tồn tại.”
“Có cái gì như một sự phản bội!”
Cuộc chiến biên giới 1979: Vì sao báo chí Việt Nam vẫn e dè không nói Trung Quốc xâm lược Việt Nam trong khi đảng tri ân TQ?
Một đơn vị pháo binh của Việt Nam chống lại quân xâm lược Trung Quốc dọc theo đường biên giới 230 km của tỉnh Lạng Sơn với Trung Quốc vào ngày 23 tháng 2 năm 1979.
AFP
Cuộc chiến biên giới 1979: Vì sao báo chí Việt Nam vẫn e dè không nói Trung Quốc xâm lược Việt Nam?
00:00/09:01
Đúng 42 năm ngày quân đội giải phóng nhân dân Trung Hoa nổ súng tấn công khắp các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, 17/2/1979-17/2/2021, đến nay báo chí nhà nước Việt Nam vẫn e dè khi nêu tên Trung Quốc trong các bài viết kỷ niệm.
Cụ thể, trong bài “Ký ức về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc sau 42 năm” đăng tải trên tờ Báo Tin Tức của Thông Tấn Xã Việt Nam, người đọc sẽ rất khó hiểu vì không rõ Việt Nam đã chiến đấu với nước nào trong cuộc chiến này.
Điều tương tự xảy ra với báo điện tử Vietnamnet khi đưa tin về cuộc dâng hương tưởng niệm các “Anh hùng liệt sĩ bảo vệ biên giới phía Bắc” của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và tỉnh Quảng Ninh.
Độc giả cũng hoàn toàn không biết, vì sao các chiến sĩ này đã tử trận và trong cuộc chiến với nước nào.
Mạng báo Tiền Phong với bài viết “Anh hùng liệt sĩ bảo vệ biên giới phía Bắc mãi là tấm gương sáng” cũng không nhắc đến Trung Quốc.
Trao đổi với RFA tối 17/2, ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu lịch sử và từng là một cựu binh vào thời điểm cuộc chiến biên giới phía Bắc, nhận định về tình trạng e dè vừa nêu của truyền thông Việt Nam không nêu tên Trung Quốc tấn công Việt Nam hồi năm 1979:
“Tôi nghĩ rằng việc không nêu tên đích danh Trung Quốc là quân xâm lược thì đó là lỗi của Tổng Biên tập các tờ báo.
Tôi nghĩ rằng không có thế lực nào cấm không được nêu tên Trung Quốc vì báo Thanh Niên hàng năm vẫn có những bài báo chỉ rõ là đội quân xâm lược từ Trung Quốc.
Do đó, tôi thấy rằng việc tự biên tập, tự hạn chế hoặc không muốn gây hiềm khích mới trong mối quan hệ hiện nay là do thái độ của Tổng Biên tập báo.”
Cuộc chiến chỉ mới mấy chục năm mà lại không nhắc đến thì rất nguy hại cho lớp trẻ bởi vì họ không biết đến cuộc chiến thì cũng không biết đến kẻ thù thường trực của Việt Nam là Trung Quốc trong suốt lịch sử kéo dài của Việt Nam. - Nhà báo Nguyễn Vũ Bình
Theo ghi nhận của RFA, hầu hết các bài báo trong 2 ngày qua đều không gọi tên Trung Quốc trong tiêu đề, chỉ có một số báo như Thanh Niên và Kiến Thức gọi thẳng.
Điển hình như bài “42 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc: Đánh trả quân xâm lược Trung Quốc” mà tờ Thanh Niên đăng tải những hình ảnh chiến đấu, phục vụ chiến đấu của quân và dân tỉnh Cao Bằng trong tháng 2 và 3/1979.
Ngoài ra, trong bài viết của Tuổi trẻ đăng sáng 17/2/2021 chỉ gọi tên Trung Quốc duy nhất một lần ở gần cuối bài khi nhắc đến sự kiện tháng 3/1979, “quân Trung Quốc đã giết sạch 43 người là anh chị em công nhân và gia đình họ ở trại lợn Đức Chính cạnh đó rồi ném xuống cái giếng nước dưới những khóm tre”.
Từ Hà Nội, nhà báo độc lâp Nguyễn Vũ Bình, từng công tác tại Tạp chí Cộng sản cho hay:
“Tôi nhớ là hầu như không có bài nào viết về chiến tranh biên giới trong thời kỳ tôi làm ở đấy gần 10 năm, từ tháng 8/1992-1/2001.”
Theo nhà báo Nguyễn Vũ Bình, dù tình hình nhắc đến Trung Quốc trong những vấn đề nhạy cảm hiện nay đã được cải thiện so với trước đây nhưng vẫn chưa có bước tiến đáng kể. Ông lập luận:
“Đối với nhà nước Việt Nam thì Trung Quốc là đồng minh ý thức hệ, đồng minh chiến lược nên trong việc đề cập đến chiến tranh biên giới chống Trung Quốc thì bao giờ người ta cũng e dè.
Chỉ từ nửa năm nay, từ đợt Malaysia có văn bản lên Ủy ban Biển Quốc tế sau đó Trung Quốc phản ứng và Việt Nam cũng có đơn yêu cầu, đến việc ASEAN họp thì Việt Nam đưa được nội dung về Biển Đông vào cuộc họp. Tóm lại là hơn nửa năm nay, động thái của Việt Nam đối với Trung Quốc có khác trước, tức dám nói ra những quyền lợi, lợi ích của mình trước cộng đồng quốc tế.
Đợt này cũng có một và tờ báo có nói về chiến tranh Trung Quốc xâm lược nhưng vẫn còn rất dè dặt. Nó là truyền thống của Việt Nam từ xưa đến nay là không dám nói động gì đến những vụ thế này. Tình trạng vẫn kéo dài như thế.”
Người dân Hà Nội tưởng niệm chiến tranh biên giới ngày 16 tháng 2 năm 1979. Ảnh chụp ngày 17 tháng 2 năm 2014.
Ông Đinh Kim Phúc nêu ra nguyên nhân vì sao truyền thông lề phải trước đây hạn chế nhắc đến cuộc chiến năm 1979:
“Vấn đề hậu chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam chống quân xâm lược Trung Quốc từ lâu Việt Nam tuân thủ các thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô là không nhắc lại quá khứ, không gây lại hận thù giữa hai quốc gia để cùng phát triển.
Tôi đánh giá rằng Việt Nam đã tuân thủ cam kết đó rất tốt, nhưng ngược lại Trung Quốc hàng năm đến ngày 17/2 vẫn làm các cuộc tưởng niệm cái gọi là cuộc phản kích sùng vệ, dạy cho Việt Nam một bài học bằng hình thức này, bằng một hình thức khác về chiến binh Trung Quốc.
Chúng ta thấy một thời gian dài sau khi trở lại bình thường hóa quan hệ Việt – Trung thì những cái về hình thức trong thời kỳ từ năm năm xung đột biên giới phía Bắc Việt Nam không được Việt Nam nhắc đến.”
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cho rằng chính những điều ông vừa nêu đã gây ra tâm lý nghi kỵ trong quần chúng nhân dân: Liệu Hà Nội có khuất phục Bắc Kinh hay không? Liệu Hà Nội đang toan tính gì mà nhân dân không được tưởng niệm, cựu chiến binh không được nhắc đến?
Tuy nhiên, ông Đinh Kim Phúc cũng cho biết chính phủ Hà Nội đang ngày càng mở rộng cho người dân biết thêm về cuộc chiến. Ông đưa ra dẫn chứng:
“Trong một thời gian gần đây, nhất là sau sự việc HD-981 vào thềm lục địa của Việt Nam thì nhiều bài báo, rất nhiều sự kiện đã nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới vào tháng 2/1979.
Mới gần đây, với sự chỉ đạo của Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng thì bộ phim năm 1979 đã nói rất rõ quá trình, âm mưu, thủ đoạn và tiến trình của cuộc chiến tranh ở biên giới phía nam và biên giới phía bắc.”
Bộ phim “Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh - Biên niên sử truyền hình: Năm 1979” được chiếu trên Đài Truyền hình Quốc gia VTV1 vào tối 11/8/2020.
Tôi nghĩ rằng việc không nêu tên đích danh Trung Quốc là quân xâm lược thì đó là lỗi của Tổng Biên tập các tờ báo. Tôi nghĩ rằng không có thế lực nào cấm không được nêu tên Trung Quốc vì báo Thanh Niên hàng năm vẫn có những bài báo chỉ rõ là đội quân xâm lược từ Trung Quốc. - Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Phim do Báo Nhân dân sản xuất hoàn thành năm 2020. Đứng đầu Ban chỉ đạo là Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Lê Mạnh Hùng. Chỉ đạo nội dung là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng và Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam Thuận Hữu.
Các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ nhận định Ban Tuyên giáo Việt Nam có một sự thay đổi trong cách đưa tin về cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung thông qua việc công chiếu bộ phim.
Dù vậy, ngay ngày kỷ niệm 42 năm sau cuộc chiến, việc hầu hết các báo đều né tránh nhắc đến tên Trung Quốc trong cuộc chiến năm 1979 khiến nhiều người quan tâm không khỏi bức xúc.
Không chỉ thế, việc này còn gây ra những nguy hại khác, như lời nhà báo Nguyễn Vũ Bình:
“Nó rất độc hại, làm cho người trẻ tuổi không biết được lịch sử dân tộc, gần như quên gốc gác của mình, nhất là với kẻ thù truyền kiếp ở phương Bắc. Cuộc chiến chỉ mới mấy chục năm mà lại không nhắc đến thì rất nguy hại cho lớp trẻ bởi vì họ không biết đến cuộc chiến thì cũng không biết đến kẻ thù thường trực của Việt Nam là Trung Quốc trong suốt lịch sử kéo dài của Việt Nam.”
Cuộc tấn công của người láng giềng phía Bắc Việt Nam diễn ra vào rạng sáng ngày 17/2/1979.
Bấy giờ, sáu trăm ngàn quân Trung Quốc với chín quân đoàn chủ lực cùng hơn 2.500 khẩu pháo, năm trăm xe tăng và thiết giáp đồng loạt vượt biên giới tiến vào sáu tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu.
Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 16/3 cùng năm.
Thống kê cho thấy có đến 60.000 người Việt chết và bị thương trong cuộc chiến này, phía Trung Quốc có hơn 21.700 người chết và bị thương..
Sự thật Chiến tranh biên giới Việt -Trung 1979 khốc liệt như ...