Nhiều nhà khoa học bày tỏ sự thất vọng về kết luận nguyên nhân cá chết hàng loạt tại các tỉnh miền Trung có thể do hiện tượng thủy triều đỏ, chứ không liên quan đến Formosa
Đúng 19 giờ 57 phút tối 27-4, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) tổ chức họp báo thông báo kết luận nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá chếttại biển miền Trung. Cuộc họp chậm 57 phút so với dự kiến ban đầu nhưng chỉ diễn ra trong khoảng 15 phút và phóng viên báo chí không được đặt câu hỏi.
Trao đổi tại buổi làm việc, ông Võ Tuấn Nhân, Thứ trưởng Bộ TN-MT, cho biết qua nghe báo cáo của Bộ TN-MT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT), Bộ Khoa học và Công nghệ (KH-CN), ý kiến của các địa phương, các nhà khoa học, đồng thời qua thảo luận loại trừ nhiều nguyên nhân khác có thể xảy ra, các nhà khoa học và cơ quan quản lý thống nhất nhận định sơ bộ có 2 nhóm nguyên nhân chính có thể gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung. Thứ nhất, do tác động của các độc tố hóa học thải ra từ hoạt động của con người trên đất liền và trên biển. Thứ hai, do hiện tượng dị thường tự nhiên kết hợp với tác động của con người tạo nên hiện tượng tảo nở hoa, mà trên thế giới gọi là hiện tượng thủy triều đỏ.
Chủ trì họp báo, Thứ trưởng Bộ TN-MT Võ Tuấn Nhân cho rằng chưa có bằng chứng Formosa liên quan tới cá chết hàng loạt. Ảnh: NGUYỄN HƯỞNG
Đáng lưu ý là sau khi đưa ra 2 nguyên nhân trên, Thứ trưởng Nhân khẳng định: “Đến thời điểm hiện nay, qua kiểm tra và thu thập chứng cứ, chưa có bằng chứng để kết luận về mối quan hệ liên quan của Formosa và các nhà máy đến vấn đề cá chết hàng loạt”.
Ông Nhân cũng thông tin qua số liệu quan trắc và đánh giá của các cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, môi trường nước biển chưa phát hiện các thông số môi trường vượt quy chuẩn quy định. Ông Nhân cũng lưu ý thêm đây là vấn đề phức tạp, đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới nên đòi hỏi phải có thời gian để xác định nguyên nhân. “Do vẫn chưa biết rõ nguyên nhân nên tới đây, Bộ KH-CN sẽ chủ trì huy động và điều phối các cơ quan nghiên cứu khoa học để thực hiện các nghiên cứu nói trên. Nếu cần thiết, sẽ huy động các tổ chức khoa học quốc tế để kiểm chứng” - ông Nhân nhấn mạnh.
Vào cuộc quá chậm trễ
Trao đổi nhanh với phóng viên Báo Người Lao Động tối 27-4, ông Trần Thế Loãn, nguyên Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm (Bộ TN-MT), cho biết 2 nguyên nhân được Bộ TN-MT công bố trên đều có xuất phát chung từ các chất thải hoặc tác động của các chất độc hại. “Bản thân hiện tượng thủy triều đỏ là do một phần từ các chất thải kết hợp với diễn biến nhất định của thời tiết. Các chất thải đó bao gồm nitrat và phosphate. Tuy đó là chất thải thông thường, hoàn toàn không phải chất thải trong danh mục độc hại nhưng khi hàm lượng quá cao sẽ khiến tảo trong biển phát triển nhanh, dẫn đến thiếu ôxy trong nước và cá chết” - ông Loãn lý giải.
Ông Loãn cũng cho rằng để tìm ra nguồn gây độc hại không dễ nhưng nếu không tìm ra nhanh thì nguy cơ tiếp tục ảnh hưởng nặng nề và lâu dài đến sự sống của động vật, sinh vật biển, sinh kế của người dân... “Hiện tượng cá chết thực ra cũng xảy ra nhiều trên thế giới rồi. Tuy không có thời gian cụ thể để tìm ra nguyên nhân bởi còn phụ thuộc vào điều kiện, tình huống riêng… nhưng hầu hết các nước đều vào cuộc xử lý rất nhanh. Chúng ta quá chậm trễ, chính thức có thông tin cá chết từ ngày 6-4 nhưng hơn chục ngày sau các bộ, ngành mới vào cuộc thì tất nhiên không thể có kết quả sớm được” - nguyên Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm đánh giá thêm.
Thiếu minh bạch, người dân sẽ nghi ngờ
Trong khi đó, GS-TSKH Phạm Ngọc Đăng, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, cho rằng thủy triều đỏ là hiện tượng có thể nhận biết bằng mắt thường và hoàn toàn có thể được các sở TN-MT địa phương ghi nhận. “Tuy nhiên, không hề thấy ghi nhận, cảnh báo hiện tượng này từ trước mà giờ lại nêu đó là một trong những nguyên nhân gây cá chết thì có thể không thuyết phục” - ông Đăng nói.
Ngoài ra, theo ông Đăng, điều cần làm hiện nay là ngoài việc tiếp tục làm rõ nguyên nhân thì cần gấp rút kiểm soát quy trình xả thải từ các nhà máy, đặc biệt là xả thải từ việc súc xả đường ống của Formosa để hạn chế tối đa tác động đến môi trường.
GS-TSKH Lê Huy Bá, chuyên gia độc lập, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và Quản lý môi trường (ĐH Công nghiệp TP HCM), bày tỏ sự thất vọng bởi Thứ trưởng Bộ TN-MT Võ Tuấn Nhân đã không có được sự giải thích minh bạch, rõ ràng về nguyên nhân gây chết cá hàng loạt ở miền Trung. “Cần lấy khoa học để chứng minh tính khoa học của nó mới thuyết phục được nhân dân. Nếu có ai đúng, ai sai; sai như thế nào, tìm ra nguyên nhân hay chưa tìm ra, hay như thế nào... cũng cần công bố tường tận, chân thực một cách khoa học. Đây là đòi hỏi chính đáng của dư luận. Nếu các nhà quản lý trả lời như thế là chưa minh bạch và người dân sẽ nghi ngờ” - ông Bá bức xúc.
Nói về những hệ lụy của việc chậm công bố nguyên nhân gây chết cá, ông Lê Huy Bá nhấn mạnh: “Ngư dân đã nghèo lại càng nghèo thêm khi bị thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng sinh kế. Họ đã mong chờ từng giây để được biết nguyên nhân gây chết cá, ai gây ra, nó độc như thế nào, còn nguy hiểm không, có tiếp tục đánh bắt cá hay nuôi trồng hải sản hay không, có tắm biển được không… Rất nhiều câu hỏi cần giải đáp nhưng đã không có câu trả lời. Nếu không sớm giải đáp thì thiệt hại sẽ nặng nề vô cùng”.
Thủy triều đỏ không làm chết người
Liên quan đến việc người dân miền Trung tử vong sau khi lặn biển, nguyên Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm Trần Thế Loãn cho rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến người lặn biển chết. Thực tế, bản thân họ lặn ở độ sâu đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ cho sức khỏe và tính mạng. Tuy nhiên, trước nay chưa hề ghi nhận trường hợp tính mạng con người bị ảnh hưởng do thủy triều đỏ. Do đó, cần có sự xác định rõ ràng nguyên nhân gây ra cái chết đó để cảnh báo, trấn an người dân miền Trung.
Cú đấm mạnh vào kinh tế biển miền Trung
TS Nguyễn Tác An, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật biển Việt Nam, cho rằng tình trạng cá chết đang tác động tiêu cực đến môi trường biển cũng như kinh tế biển các tỉnh miền Trung. Theo TS An, ngư dân miền Trung sinh kế chủ yếu vào tài nguyên biển mà cá đáy, sinh vật đáy, nền tảng sinh vật đáy đóng vài trò đến 90%. Trong khi đó, việc cá tầng đáy chết hàng loạt chứng tỏ hệ sinh thái bị hủy hoại nghiêm trọng. “Kinh tế biển miền Trung bị một cú đấm rất mạnh, người dân có nguy cơ mất sinh kế, du lịch ảnh hưởng… Việc khôi phục có được hay không còn phụ thuộc vào sự cố gắng và xác định được chất gây hại, mức độ gây hại như thế nào” - TS An nhận xét.
Về nguyên nhân dẫn đến thủy sản chết hàng loạt, TS An nhận định: “Việc sinh vật tự nhiên, hệ sinh thái bị tác động hủy diệt hàng loạt như vậy có nguyên nhân chất lượng môi trường biển thay đổi. Môi trường biển thay đổi có 2 nguyên nhân: do nguồn thải từ ngoài khơi tác động vào như tràn dầu, hoặc các hoạt động ven bờ. Đối với ven bờ, tác động như thế nào làm thủy sản chết hàng loạt, phạm vi lớn như vậy thì chất thải phải rất độc, rất nhiều, lan truyền nhanh và có hiệu ứng môi trường. Tôi cho rằng việc thủy sản chết ở đây là dấu hiệu tác động bột phát của quá trình tác động tích lũy về không gian, thời gian của các yếu tố độc hại. Chúng ta cần xác định nguyên nhân, thời điểm và mức độ gây hại để có đối sách phù hợp”.
Theo TS An, hiệu quả kiểm soát, thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường có nhiều điều đáng nói. Với cách quản lý như hiện nay, cơ quan chức năng dường như không kiểm soát được hoạt động kinh tế, công nghiệp thải những gì, thải lúc nào. Tác động của các khu công nghiệp ven biển đối với môi trường, các nhà khoa học đã cảnh báo liên tục.
TS Võ Sĩ Tuấn, Viện trưởng Viện Hải Dương học, cho rằng việc thủy sản chết hàng loạt đã từng xảy ra ở nhiều tỉnh thành ở nước ta nhưng đây là lần đầu tiên xảy ra hiện tượng cá chết ở số lượng và không gian lớn như vậy. “Chúng tôi đang tập hợp tư liệu cũng đưa ra nhiều giả thuyết khoa học nhưng lúc này chưa để công bố kết luận gì vì chưa đủ căn cứ khoa học” - TS Tuấn nói. K.Nam ghi
Thủ tướng Phúc khẳng định vụ cá chết là sự cố nghiêm trọng về môi trường và ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân ven biển miền Trung.
Trong khi ông Phúc nhìn nhận đây là sự việc “bất thường” và là “lần đầu tiên” xảy ra tại Việt Nam trên vùng biển rộng, ông cũng nói về một số “bất cập”.
Trong cuộc họp với lãnh đạo Hà Tĩnh và các địa phương bị ảnh hưởng do hiện tượng hải sản chết hàng loạt vào hôm 01/05, ông Phúc nói một số địa phương còn chậm trễ trong đề xuất giải pháp xử lý, công tác quản lý môi trường còn nhiều bất cập và chưa kịp thời "quan trắc nước thải" ở một số nhà máy liên quan.
Ông Phúc được truyền thông trong nước dẫn lời yêu cầu Bộ Công an khẩn trương thu thập toàn bộ chứng cứ và kiên quyết xử lý theo quy định của pháp luật nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu hình sự.
“Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ, ngành điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm các đối tượng kích động, lôi kéo người dân tụ tập, gây rối làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây thiệt hại về kinh tế, bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và môi trường đầu tư,” VNeconomyđưa tin.
'Kích động người dân'
Sáng ngày 1/5, hàng ngàn người đổ về các trung tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong cuộc xuống đường vì hiện tượng cá chết hàng loạt xảy ra tại miền Trung Việt Nam.
Ước tính có khoảng 1.000 người tham gia cuộc tuần hành tại Hà Nội.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hàng trăm người tham gia tuần hành đi qua các con đường tại trung tâm thành phố mang theo các biểu ngữ phản đối công thép Đài Loan Formosa bị nghi thải rác công nghiệp có độc tố ra biển.
Một số clip và ảnh bạn đọc gửi cho BBC dường như cho thấy đã xảy ra tình trạng trấn áp người xuống đường tại Tp HCM.
Trong khi đó, tại Đà Nẵng, một số nhà hoạt động và người dân xuống đường đã ngay lập tức bị trấn áp.
Một số người nói họ "bị đánh" bởi lực lượng an ninh tại thành phố miền Trung này.
Tối 1/5, trên bản tin 20 giờ, Đài truyền hình Việt Nam VTV công bố bắt hai nhà hoạt động tên Trương Minh Tam và Chu Mạnh Sơn vì "thu thập thông tin và hình ảnh để phát tán trên mạng internet nhằm mục đích kích động người dân".
Ông Trương Minh Tam và Chu Mạnh Sơn được mô tả là đã đến khu công nghiệp Formosa, và Kỳ Hà, Hà Tĩnh ghi nhận tình hình đời sống ngư dân tại các khu vực này sau khi thảm họa cá biển chết hàng loạt xảy ra.
Bản tin này của VTV nói ông Tam đã "phỏng vấn" và "biên tập phóng sự phát trên các trang mạng xấu".
Trả lời BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn, nhà hoạt động Hoàng Dũng của phong trào Con Đường Việt Nam nói: "Về mặt đảng cầm quyền họ bắt là đúng, vì hành động này sẽ dập được mọi tiếng nói đối lập chuyên nghiệp cất lên từ tâm bão, bóp nát mọi ý định săn tin của các nhà báo tự do khác" và để "nắm lại độc quyền truyền thông của đảng."
"Hành động này sẽ đúng cho đến khi họ trả tự do cho Tam trong vòng 9 ngày, khi mục đích giữ cho bão qua đã đạt được. Nó sẽ sai khi xử tù ông Tam. Thời điểm này ko phải năm ngoái, khi mà cả kỳ bầu cử và ông Obama đều sắp tới," ông Dũng cho biết.
'Không có cá'
Ngoài ông Chu Mạnh Sơn và Trương Minh Tam, nhà hoạt động Nguyễn Anh Tuấn, đại diện của tổ chức VOICE Việt Nam được cho là "bị công an vây giữ tại nhà thờ giáo xứ Đông Yên, xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngay sau khi phát gạo cứu trợ cho bà con". Nguồn tin của BBC cho biết hiện ông Tuấn "vẫn ổn".
Ông Nguyễn Anh Tuấn đã có mặt tại khu vực này của Hà Tĩnh để ghi nhận tình hình ngư dân sau thảm họa cá chết hàng loạt và tổ chức cứu trợ.
Ông Tuấn nói với BBC Tiếng Việt: "Tình hình vẫn căng thẳn. An ninh vây quanh nhà thờ. Xe vào ra thường xuyên bị bám sát và kiểm tra."
"Nhà thờ nằm sát đường 1B (đường tránh quốc lộ 1A) bao giờ cũng có người túc trực nhìn vào nhà thờ. Một vài đoàn cứu trợ đến đây được tôi giới thiệu ra âu thuyền gặp ngư dân thì khi vừa đến an ninh thường phục đã đến để 'hỏi thăm".
Theo ông Tuấn, người dân tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh "vẫn không ăn cá và không bán được cá. Nhà thờ trưa ra chợ không thấy bán cá."
Thủ tướng Phúc khỏi cần tìm thủ phạm đâu xa vì trong lịch sử gần 5000 năm chưa bao giờ có con cá chết nhưng dưới thời đại HCM Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa thi hàng triệu sinh vật tôm cá cua sò ở biển, chim thú trên rừng và con người VN chết thì chính thủ phạm là đảng CSVN!
Cách đây 10 năm, khi Việt Nam gia nhập WTO, hãng tin CBS (Mỹ) đã dùng hàng tít rất ấn tượng: Việt Nam đang gầm như sấm sét tiến vào kinh tế thế giới (“Vietnam Thundering Into World Economy”). Roger Wilkison của Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) nhận định rằng việc Việt Nam vào WTO “gây sợ hãi cho các nước láng giềng”. Peter Capella của hãng tin Pháp AFP trích lời Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy rằng Việt Nam có thể là “một trong những ngôi sao đang lên của mậu dịch thế giới”. Với Asia Pulse (16-11-2006), tờ báo này nhắc lại lời Hannes Romauch (phó tổng giám đốc T&M Investment) trong cuộc họp báo 15-11-2006 tại Hà Nội: “Kinh tế Việt Nam đang phát triển cực mạnh và quan trọng hơn, nó cực kỳ ổn định”.
10 năm sau những đánh giá tích cực về Việt Nam, bức tranh Việt Nam trở nên đen đúa xám xịt. Thậm chí cách đây 4 năm, trên Foreign Policy 11-7-2012, nhà báo Geoffrey Cain đã phải thốt lên: “Dấu chấm hết cho sự kỳ diệu Việt Nam!”. Geoffrey Cain nhắc lại vụ Vinashin và Vinalines, việc Moody's hạ mức tín nhiệm Việt Nam từ B1 xuống Ba3, việc Báo cáo cạnh tranh toàn cầu từ 2011-2012 của Diễn đàn kinh tế thế giới “cho” Việt Nam rớt 6 hạng, xuống còn 65… Geoffrey Cain dẫn lời một luật sư doanh nghiệp Mỹ tại Sài Gòn rằng “chẳng ai muốn chơi với những kẻ này cả”, và trích lời nhà cựu ngoại giao Mỹ David Brown: “Việc “dọn sạch nhà cửa” là điều vượt quá khả năng của hệ thống”… Không chỉ tối tăm, kinh tế Việt Nam đang tiến tới giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Ngân sách trống rỗng. Nhân tài ra đi. Xã hội bất an cực độ. Cùng với tất cả điều đó là hiểm họa “ngoại xâm mềm”, bằng con đường kinh tế, từ Trung Quốc. Từng ngày từng giờ, cơn sóng thủy triều đỏ Trung Quốc lan rộng và phủ kín Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau (chính xác là 54/63 tỉnh-thành). Báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài cho biết, Trung Quốc hiện xếp thứ 9/112 quốc gia-lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Tính đến đầu tháng 3-2016, Trung Quốc (không kể Đài Loan, Hong Kong và Macao) có 1.346 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 10,4 tỷ USD. Chỉ xếp thứ 9 với tổng vốn vỏn vẹn 10,4 tỷ USD nhưng tại sao sự có mặt của Trung Quốc trở nên đáng lo ngại? Vì có quá nhiều điều không bình thường. Chưa nhà đầu tư nước ngoài nào gây ra nhiều tai tiếng bằng Trung Quốc. Vô số điển hình. Dự án tuyến đường sắt cao tốc Cát Linh-Hà Đông là một ví dụ. Dự án có tổng đầu tư là 552 triệu USD (thời giá năm 2008) trong đó vốn ODA Trung Quốc là 419 triệu USD. Dự kiến công trình sẽ hoàn thành trong thời gian từ tháng 8-2008 đến tháng 11-2013 nhưng ì ạch mãi đến cuối năm 2015 mới xong. Cái giá của sự chậm tiến độ là 339 triệu USD cộng thêm! Không chỉ vậy, tổng thầu Trung Quốc còn nợ các nhà thầu phụ Việt Nam đến 554 tỷ đồng. Tương tự, trong dự án Nhà máy gang thép Lào Cai với tổng đầu tư khoảng 340 triệu USD (Việt Nam góp 55%), một nhà thầu Trung Quốc cũng quịt tiền. Sau khi ký hợp đồng mua vật liệu và thuê công nhân Việt Nam san ủi mặt bằng, nhà thầu phụ này lặng lẽ biến mất! Dù vậy, Trung Quốc vẫn có ưu thế giành thầu và chiếm nhiều dự án trọng điểm chẳng hạn các nhà máy nhiệt điện. Có quá bất thường không? Điều bất thường thứ hai là có rất nhiều công nhân Trung Quốc được thoải mái vào Việt Nam mà không cần hộ chiếu-visa. Con chuột cũng khó có thể lọt vào cửa khẩu huống chi hàng chục ngàn người! Không người Việt nào không nhức nhối và lo âu trước hiện tượng đất nước bị nhuộm tái tím bởi làn sóng “thủy triều đỏ” từ Trung Quốc. Năm 2009, tờ VietnamNet từng thực hiện phóng sự về những ngôi làng Trung Quốc mọc tại Việt Nam. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam thường bày tỏ “bất bình” trước sự “ngang nhiên” tuyên xưng chủ quyền của Trung Quốc đối với biển đảo Việt Nam nhưng về sự ngang nhiên xuất hiện bất hợp pháp của hàng chục ngàn người Trung Quốc ngay trên đất Việt Nam thì gần như không ai lên tiếng hoặc hành động gì cả, đến mức sự bất thường này được phép đương nhiên tồn tại. Cuối năm 2015, tại Đà Nẵng, hai cửa hàng do người Trung Quốc làm chủ thậm chí đã “tuyên xưng chủ quyền” bằng cách không bán hàng cho người Việt. Người Việt đang mất chủ quyền ngay trên chính mảnh đất quê hương mình rồi chăng? Điều bất thường nhất trong tất cả những điều bất thường là cách thức quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hãy đọc một đoạn trong bài viết “Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua” của thạc sĩ Nguyễn Phương Hoa thuộc Viện nghiên cứu Trung Quốc (nằm tại số 1, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội; trực thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam): “Cùng với tăng cường xây dựng niềm tin chính trị, lãnh đạo hai nước luôn chú trọng đến xây dựng mối quan hệ kinh tế hiệu quả, thiết thực và đang được cụ thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “Hai hành lang, một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc bộ mở rộng”; hướng đến cân bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam...”. Cách viết này, của một “chuyên gia” thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, cùng với ngôn ngữ của nó, cho thấy một sự thật: quan hệ kinh tế Việt Nam với Trung Quốc còn là quan hệ chính trị, liên quan đến vấn đề thể chế và chính sách đối ngoại “đặc biệt”, giữa Việt Nam với Trung Quốc. Nó giải thích được những bất thường nói ở trên. Mới đây, tại hội thảo “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường những vấn đề cải cách thể chế giai đoạn 2016-2020” tổ chức ngày 12-4-2016, PGS.TS Trần Đình Thiên đã thảng thốt: “Đi sau đã đành nhưng bi kịch ở chỗ ta lại đi theo cách của Trung Quốc”. Chính xác hơn, phải nói rằng, không phải “ta đi theo cách của Trung Quốc”, mà là “ta” đang bị Trung Quốc dắt đi. Đất nước đang bị ô nhiễm bởi nhiều thứ từ Trung Quốc, từ kinh tế đến lối sống. Nếu không dừng lại và cải cách thể chế, “ta” sẽ chẳng đi đâu khác ngoài cửa tử mà ngọn thủy triều đỏ Trung Quốc xô dạt “ta” vào. Mạnh Kim (FB Mạnh Kim)
Trận chiến hào hùng chặn đứng làn sóng đỏ cộng sản
Ngày 15/08/2010, tại thủ đô Warszawa và nhiều địa phương khác, nhân dân Ba Lan tổ chức kỷ niệm trọng thể ngày thành lập quân đội Ba Lan, đồng thời cũng kỷ niệm 90 năm “Trận chiến Warszawa” hào hùng.
Trận chiến Warszawa 90 năm trước
“Trận chiến Warszawa” còn được người Ba Lan gọi là “Phép mầu trên sông Vistula” nổ ra từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 8 năm 1920, chống lại cuộc xâm lăng của Hồng quân Liên Xô.
“Trận chiến Warszawa” được xếp thứ 18 trong danh sách các trận đánh quyết định có tính bước ngoặt của lịch sử thế giới, không chỉ bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Ba Lan, mà còn đồng thời ngăn chặn làn sóng đỏ cộng sản tràn qua Tây Âu.
Giữ vai trò chủ chốt của quân đội Ba Lan trong việc đánh bại đạo quân Xô Viết hùng mạnh và đông hơn nhiều lần là Tư lệnh tối cao, Thống chế Józef Pilsudski, người đã cho xuất quân vào ngày 16 tháng 8 và đập tan lực lượng chính của Bolshevik ở ngoại ô Warszawa.
Ý nghĩa lịch sử của “Trận chiến Warszawa” vẫn còn chưa được đánh giá hết ở Ba Lan cũng như ở Tây Âu.
Đại Sứ Anh quốc tại Ba Lan trước chiến tranh, Lord Edgar Vincent D’Abernon, đã gọi “Trận chiến Warszawa” trong tiêu đề cuốn sách của ông là “Trận đánh quyết định thứ 18 trong lịch sử thế giới”.
Trong một bài báo xuất bản tháng 8 năm 1930, Edgar Vincent D’Abernon cũng đã viết:
“Lịch sử hiện đại của nền văn minh biết quá ít về các sự kiện có ý nghĩa lớn hơn “Trận chiến Warszawa” trong năm 1920. (…) Nếu Trận chiến Warszawa kết thúc bằng chiến thắng của quân Bolshevik, thì sẽ tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử châu Âu, chắc chắn là với sự sụp đổ của Đông Âu, châu Âu sẽ mở cửa cho chính sách tuyên truyền cộng sản và sự xâm lấn của Liên Xô (…). Theo các nhà văn chính trị, bằng “Trận chiến Warszawa” trong năm 1920, Ba Lan đã cứu cả châu Âu”.
Simon Goodough, sử gia nổi tiếng về chiến tranh và quân đội, trong cuốn sách “Tactical Genius in Battle” (Bậc kỳ tài chiến thuật trong trận đánh) xuất bản năm 1979, công nhận tài năng chỉ huy của Thống chế Piłsudski, đã xếp ông vào hàng ngũ 27 vị tướng thắng trận trong các trận đánh lớn nhất của lịch sử thế giới. Thống chế Josef Piłsudski đứng bên cạnh các nhà chiến lược quân sự lớn như Themistocles, Alexander, Caesar, Gustavus Adolphus và Conde.
Thống chế Jozef Pilsudski, niềm tự hào của dân tộc Ba Lan
Tướng Pháp Louis Faury, trong một bài viết vào năm 1928 đã so sánh “Trận chiến Warszawa” với trận thành Vienna (nước Áo): “Hai trăm năm trước Ba Lan dưới tường thành của Vienna đã cứu thế giới Cơ đốc giáo khỏi sự đe dọa của Thổ Nhĩ Kỳ. Trên sống Vistula và sông Niemen, một dân tộc cao thượng một lần nữa mang lại cho thế giới văn minh một sự cống hiến to lớn nhưng không được đánh giá đầy đủ”.
Còn sử gia người Anh JFC Fuller đã viết trong cuốn sách “Trận chiến Warszawa năm 1920”: “Bao vây dịch bệnh Chủ nghĩa Mác tại trung tâm châu Âu, “Trận chiến Warszawa” đã làm quay ngược kim đồng hồ Bolshevik, (…) kiềm chế tình trạng bất ổn xã hội ở phương Tây, gần như phá tan thử nghiệm của những người Bolshevik”.
Hướng tới tương lai
Ba Lan giành được dân chủ, tự do hoàn toàn vào năm 1989 sau 44 năm dưới chế độ cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Kể từ đây, ngày 15/08 mới được hồi phục, trở thành ngày lễ quốc gia chính thức.
Báo chí Nga hình như không thích thú khi đưa tin về việc Ba Lan tổ chức từng bừng ngày lễ 90 năm “Trận chiến Warszawa”. Tờ báo Nga “Komsomolskaya Pravda” nghi vấn về “sự tan băng” gần đây trong quan hệ giữa Moscow và Warszawa, nhận định tiến trình có vẻ như đã kết thúc và một luồng gió khác lại sớm thổi lạnh.
Trong khi đó, nhận vai trò chỉ huy tối cao của quân đội, Tổng thống Ba Lan Bronislaw Komorowski mới đắc cử, trong bài diễn văn đã nhắc tới việc Ba Lan gia nhập khối Liên minh Quân sự NATO, hiện đại hóa quân đội, cũng như kỷ niệm ngày chiến thắng “Trận chiến Warszawa”, không có ý tưởng chống lại hay đối đầu với bất kỳ quốc gia nào, kể cả nước đã xua quân sang Ba Lan cách đây 90 năm với dã tâm xóa bỏ Ba Lan tự do, biến nó thành Ba Lan đỏ.
Từ nhiều ngày nay nước Nga đang ở trong biển lửa với hàng chục ngàn héc ta rừng bị cháy dữ dội trong thời tiết nóng nực kỷ lục, đã có hơn 50 người bị chết. Trong ngày 13/08, đội tiếp viện của Ba Lan với 50 chiếc xe cứu hỏa và 160 lính đã có mặt tại Nga cùng lăn lộn chữa cháy với các đồng nghiệp Nga.
Mặc dù một số cư dân của làng Ossow không hài lòng, chính quyền Ba Lan vào dịp lễ này đã cho khánh thành một tượng đài khiêm nhường tưởng niệm những người lính Nga tử trận ngay tại nơi chôn cất 22 người lính Hồng quân Liên Xô bị chết trong cuộc chiến năm 1920.
Tượng đài kỷ niệm và hai người mang biểu ngữ phản đối với dòng chữ "Tượng đài - Nhục nhã" - Ảnh: PAP
Đây thực sự là một nghĩa cử đầy lòng nhân đạo của dân tộc Ba Lan và chính sách hướng tới mối quan hệ thân thiện với nước Nga láng giềng. Còn những tiếng nói đơn lẻ của dân chúng phản đối lại việc làm của nhà nước được xem là chuyện bình thường trong một xã hội dân chủ.
Chúng ta có thể liên tưởng thiện chí này của người Ba Lan với hành động cực kỳ nhỏ nhen, vô nhân bản của nhà chức trách cộng sản Việt Nam trong việc vận động chính phủ các nước Indonesia và Malaysia phá hủy bia tưởng niệm những người Việt bỏ mình trên biển cả trong cuộc hành trình đi tìm tự do sau năm 1975.
Lời giới thiệu: Gần đây, cùng với vụ thắng cử của phe Cộng sản tại Cộng hòa Moldovia thuộc Liên bang Xô viết cũ, hiện tượng hồi sinh của xu hướng Cộng sản dường như đang tái xuất hiện. Do đó, tại Liên bang Nga, việc chính quyền Vladimir Putin vừa khôi phục chế độ tập trung quản lý kinh tế càng làm quốc tế lưu ý. Diễn đàn Kinh tế xin tìm hiểu hiện tượng đó qua bài phân tách sau đây của Nguyễn An Phú... Tại Cộng hòa Georgia, với Tổng thống Edward Schevarnadze từng là Ngoại trưởng của Chủ tịch Mikhail Gorbachev, đảng Cộng sản Thống nhất hoàn toàn chẳng còn ảnh hưởng. Tại nước Cộng hòa Azerbaijan kế cận, giới chính trị trong và ngoài chính quyền cũng đều từ chối bất cứ một thế liên minh nào đó với phe Cộng sản. Ở hai xứ rất nghèo này, đảng Cộng sản được người dân đồng hóa với một âm mưu xâm nhập của Nga. Tinh thần ái quốc của các sắc dân Georgie hay Azerbaijan khiến họ chối từ mọi giải pháp có hơi hướng Cộng sản. Nhưng, tại Cộng hòa Moldovia, trong tháng qua, người ta lại chứng kiến một hiện tượng trái ngược. Đó là phe Cộng sản đã thắng phiếu và một hội nghị quốc tế của các đảng Cộng sản trong khu vực được triệu tập tại thủ đô Chisinau của xứ này làm người ta liên tưởng đến thời vàng son của Liên xô khi xưa. Nhưng, người ta sẽ lầm nếu cho rằng người dân trong vùng muốn trở lại đường lối cộng sản vì khả năng quản lý cao hơn của hệ thống Cộng sản. Lý do chính làm làn sóng đỏ, dù chỉ là làn sóng nhỏ, đang trào dâng đây đó phải được tìm thấy ở những yếu tố khác. Trước nhất, giới kinh tế quốc tế không tìm thấy một mối liên hệ nào giữa tình hình kinh tế trong vùng với sự hồi sinh của một số phe đảng Cộng sản. Nói cách khác, không phải là vì kinh tế sa sút mà người dân đoái hoài tới giải pháp tập trung quản lý kiểu Cộng sản. Nguyên nhân của sự hồi sinh trái mùa này phải được tìm thấy từ những yếu tố chính trị địa phương như sau: Tại Moldovia, như một ngoại lệ, tinh thần dân tộc được khơi dậy chưa đủ mạnh, nên đảng Cộng sản đã thắng lớn, dù có quan hệ rất gắn bó với Nga. Tại các xứ khác, đảng Cộng sản sở dĩ trở về và lấy lại đôi chút ảnh hưởng là do chính trị địa phương. Như tại Cộng hòa Ukraine, một nhóm lãnh tụ đương quyền đã kết giao với phe Cộng sản bên phía đối lập để lật Thủ tướng Viktor Yushchenko theo xu hướng tự do, và để làm giảm uy thế của đương kim Tổng thống Leonid Kuchma. Thế liên minh này có thể đưa tới việc đảng viên Cộng sản tham gia nội các sau khi kết hợp với phe ly khai trong vòng loại của cuộc bầu cử Quốc hội tới đây. Nhưng dù sao, điều này vẫn chưa có nghĩa là đảng Cộng sản sẽ trở lại cầm quyền với chủ trương độc tài và tập trung quản lý như thời xưa. Tại Cộng hòa Belorussia, ta lại chứng kiến một điều trái ngược. Xứ này có hai đảng Cộng sản đối nghịch với nhau; một trong hai đảng đó đang miễn cưỡng hợp tác với phe dân chủ đối lập; còn đảng kia thì chỉ có tư thế rất kém trong chính quyền của Tổng thống Alexander Lukashenko. Cộng hòa Kyrgyzstan cũng có hai đảng Cộng sản, hiện đang tiến lại gần nhau với chủ trương thân Nga và ngả theo đường lối Xô viết. Các đảng dân chủ đối lập nơi đây có hợp tác với cả hai đảng Cộng sản này để tìm thế thắng phiếu. Việc một vài nhân vật dân chủ cùng với đảng viên Cộng sản tới viếng tượng Lenin vào Lễ Lao động vừa qua được dư luận chú ý, nhưng chưa đủ chứng minh sự hồi phục của cộng sản trong chính quyền. Cũng vậy, đảng Cộng sản tại Cộng hòa Kazakhstan vừa lên tiếng ủng hộ đảng Cộng sản Georgia trong kế hoạch phục hồi tư thế chính trị của Stalin. Trùm đỏ Stalin vốn là người Georgia nên có được đảng Cộng sản Georgia tôn sùng thì chẳng ai ngạc nhiên. Nhưng việc đảng Cộng sản Kazakh kết hợp hành động với cựu thủ tướng, một tài phiệt bị Tổng thống Nursultan Nazarbayev cách chức, việc đó chưa thể được gọi là sự hồi sinh của cộng sản. Tại Kazakhstan ngày nay, phe đối lập với đảng cầm quyền của Tổng thống Nazarbayev gồm có đảng Cộng hòa của cựu Thủ tướng thất sủng Kazhgeldin, có đảng Cộng sản và có vài nhóm chính trị nhỏ khác. Như vậy, nói chung thì tình hình các nước Cộng hòa Xô viết cũ quanh Liên bang Nga chưa hẳn là sự phục hồi dứt khoát của đảng Cộng sản trong thế mạnh, như nhiều người cộng sản đã mơ ước. Điểm đáng chú ý nhất, và có lẽ phổ quát nhất, là các đảng Cộng sản trong vùng đều chỉ có hy vọng tìm lại ảnh hưởng chính trị khi từ bỏ chủ trương chuyên chính về chính trị và tập trung về quản lý kinh tế. Trên đại thể, việc các đảng này trở lại như vậy cho thấy ưu điểm của chế độ dân chủ, hơn là ưu điểm của chủ nghĩa Cộng sản. Sau khi thấy sự thể như vậy rồi, người ta mới quay về Liên bang Nga, nơi mà chính quyền Vladimir Putin chẳng ồn ào cổ võ cho giải pháp Cộng sản và nơi mà đảng Cộng sản vẫn bị đẩy vào thế đối lập... Tại đây, hôm 19 tuần qua, Chính phủ vừa công bố kế hoạch tái cấu trúc Tổng công ty điện có tên là Năng lượng Thống nhất, theo hướng tập trung quản lý hơn trước. Thực tế thì đây là quyết định quốc hữu hóa một tập đoàn quốc doanh đã được tư nhân hoá trước đó. Đầu đuôi câu chuyện là vào ngày 28 tháng Tư, Hội đồng Quản trị của Tổng công ty Năng lượng Thống nhất này có phiên họp, trong đó, đại diện chính quyền Nga đã khéo đẩy ra ngoài một số đại biểu của chủ đầu tư để chiếm đa số tuyệt đối. Hội đồng Quản trị từ đó do chính phủ hoàn toàn kiểm soát để biểu quyết một số biện pháp có lợi cho chính phủ, trước tiên là kế hoạch chấn chỉnh tài chính theo khuyến nghị của chính phủ, hoặc giảm bớt quyền hạn của đương kim Tổng giám đốc là Anatoli Churbais. Ông này từng là Đệ nhất Phó thủ tướng theo xu hướng đổi mới và được mời vào chỉ huy công ty nhờ tư thế độc lập của mình. Sau phiên họp gọi là cải cách đó, ông Churbais coi như sẽ hết luôn quyền hành vì có thể bị loại bỏ mà chính phủ chỉ cần đa số tương đối trong Hội đồng Quản trị mà thôi. Tiếp theo, ngày 19 vừa qua, chính phủ Nga hoàn tất luôn việc kiểm soát toàn bộ hệ thống điện lực qua việc biểu quyết kế hoạch chấn chỉnh. Các công ty sản xuất điện lực sẽ hợp nhất thành một tập đoàn dưới quyền điều khiển của Hội đồng Quản trị của Tổng công ty Năng lượng. Đồng thời, Tổng công ty cũng mở rộng quyền kiểm soát trên mạng lưới phân phối điện. Những biện pháp trên được Bộ trưởng Phát triển Kinh tế và Ngoại thương Nga gọi là điều chỉnh những sai lầm của việc cổ phần hóa tiến hành dưới thời cựu Tổng thống Boris Yeltsin, và kế hoạch quốc hữu hóa này sẽ phải hoàn tất vào cuối năm 2004. Từ nay đến đó, Nga sẽ đình chỉ mọi dự tính cải tổ theo xu hướng thị trường, thí dụ như điều chỉnh giá điện. Trong vụ cải cách ngược này của Tổng công ty Năng lượng Thống Nhất, các cổ đông tư nhân làm chủ 47% phần vốn được hứa hẹn là sẽ có bồi thường thỏa đáng. Thị trường chưa biết ngạch số bồi thường là bao, nhưng kế hoạch vừa thông báo là trong 24 giờ đồng hồ, cổ phiếu của Tổng công ty liền sụt giá hơn 5%. Và dư luận tự hỏi vì sao Tổng công ty này lại là đối tượng của việc quốc hữu hóa, khi hệ thống phát điện và phân phối điện của Nga đang mục nát và cần tối thiểu 40 tỷ đô la đầu tư. Thực ra, các nhà phân tách đầu tư cho biết rằng Nga không mong đợi gì ở nguồn đầu tư nước ngoài vì sổ sách các công ty xứ này thiếu phân minh, làm Nga bị hụt mất 10 tỷ đầu tư một năm. Còn Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết suốt năm ngoái Nga chỉ nhận được có gần ba tỷ đầu tư nước ngoài, chưa bằng phân nửa số đầu tư đã trút vào Cộng hòa Tiệp... Trong khi đó, nạn tẩu tán tài sản và chuyển ngân phi pháp làm Nga mất 24 tỷ đô la mỗi năm. Tổng kết tình hình từ các nước Xô viết cũ tới Liên bang Nga, nếu đây đó có sự tái xuất hiện của xu hướng Cộng sản trong chính trị hay quản lý thì đấy chẳng là biểu hiện của sự thắng thế của cộng sản. Tại các nước Cộng hòa của Liên xô cũ, đó chỉ là sự hòa nhập của các đảng Cộng sản trong sinh hoạt chính trị bình thường. Tại Liên bang Nga, việc chính phủ quay về đường lối tập trung quản lý chỉ là biểu hiện của sự cùng quẫn, và dư luận các nhà kinh tế đang chờ đợi những tin kém vui về kinh tế Nga. Một vụ khủng hoảng tài chính tại đây là điều thị trường quốc tế dự đoán. Một dấu hiệu tiên báo là sau Tổng công ty Năng lượng đến lượt Công ty Khí đốt Gazprom cũng sẽ bị quốc hữu hóa, như tờ Moscow Times đã nói tới, trong số phát hành ngày 21, tuần qua...
Gần 30 năm đấu tranh ngăn chặn làn sóng đỏ, người Việt hải ngoại đã có những bước tiến đáng kể qua việc chiến thắng của lá cờ vàng ở các thành phố lớn và việc triệt hạ lá cờ máu ở các cơ quan công quyền, trường học.
Gần đây nhứt là việc thẳng thắn tố giác tay sai Cộng Sản Việt Nam đang lũng đoạn cộng đồng tại vùng Bắc Cali. Chống Cộng với những hành động cụ thể mới là phương pháp hữu hiệu. Nhân nhượng vì tình cảm cá nhân là sa vào cạm bẫy vết dầu loang của Cộng Sản.
Trong cuộc họp báo nhằm bạch hóa hồ sơ đặc công Cộng Sản tại San Jose, Luật Sư Nguyễn Tâm đã trưng dẫn các bằng chứng tố giác Luật Sư Nguyễn Hữu Liêm tức Henry Liêm là Cộng Sản nằm vùng. Nghe đâu Cộng Đồng Bắc Cali sẽ còn tổ chức buổi diễn đàn cộng đồng nữa để tiếp tục bạch hóa hồ sơ của những đặc công Cộng Sản khác. Theo tài liệu của Luật Sư Tâm, bạo quyền Cộng Sản Việt Nam đang tung ra kế hoạch tuyên truyền mới nhằm đối phó với chiến dịch Cờ Vàng của hải ngoại. Từ ngày lá cờ vàng lần lượt được các thành phố công nhận là lá cờ chánh thức của người Việt, Cộng Sản Việt Nam cuống cuồng lo sợ đã chỉ thị cho các cơ quan liên hệ thi hành giải pháp thúc đẩy văn hóa vận, đưa văn công ra hải ngoại trình diễn để thu phục cảm tình đồng bào hầu thâu ngắn khoảng cách giữa hải ngoại và trong nước. Điển hình là truyền hình VTV4 của Úc đã cho phát hình những chương trình tuyên truyền của Cộng Sản Việt Nam đến những nơi có người Việt sinh sống. Đồng thời, Cộng Sản Việt Nam còn thiết lập Quỹ Hỗ Trợ Cộng Đồng Người Việt Nước Ngoài và Hội Liên Lạc Với Người Việt Nước Ngoài trong mục đích ưu đãi những Việt kiều tay sai. Ngoài ra, Cộng Sản Việt Nam còn ban hành quy chế khen thưởng Việt kiều có thành tích làm nội gián. Điều này đã khiến cho nhiều kẻ tham danh hám lợi, bất chấp lương tâm cúi đầu chấp nhận làm công cụ cho cái guồng máy độc tài, phi nhân của Cộng Sản. Bằng mọi cách, Cộng Sản Việt Nam đang quay lại canh bài biển lận năm xưa hòng nhuộm đỏ hải ngoại như đã nhuộm đỏ Việt Nam.
Những con sâu kiểu Nguyễn Hữu Liêm nếu không đập thẳng tay sẽ trở thành hàng đàn và tràn ngập hải ngoại theo đúng chính sách lũng đoạn cộng đồng người Việt quốc gia của Cộng Sản Việt Nam. Một số cơ quan truyền thông hải ngoại đăng tải những bài viết mang ý đồ bôi nhọ, bóp méo người Việt quốc gia vẫn còn được dung dưỡng. Một số tác phẩm có xuất xứ không rõ ràng với mục đích gây ấn tượng xấu về người Việt quốc gia, tạo huyền thoại tốt đẹp cho Cộng Sản cũng vẫn hiện diện trong làng báo chí hải ngoại. Cộng Sản Việt Nam đang muốn nuốt chửng hải ngoại là con bò sữa béo bở hàng năm mang về hàng tỷ đô la cho cái hầu bao không đáy của lũ cán bộ đảng. Vì vậy, bọn chúng không chừa một phương kế nào để mua chuộc những kẻ sẵn sàng phản bội anh em, phản bội đồng bào mà Nguyễn Hữu Liêm là một trường hợp điển hình.
Được sự trợ giúp hết lòng của cộng đồng quốc gia nhưng Nguyễn Hữu Liêm lại giao du với Cộng Sản để rồi quay lại đánh phá người quốc gia. Những loại tham mê lợi lộc, sẵn sàng chối bỏ lý tưởng chắc chắn chỉ làm vật tế thần cho Cộng Sản Việt Nam. Nguyễn Hữu Liêm đã quên mất cái gương của những kẻ phản bội kiểu Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn cũng đã trưởng thành bởi đất nước quốc gia, được vun bồi bởi những tâm tưởng quốc gia những lại âm thầm phục vụ cho mục tiêu của Cộng Sản. Kếït quả, sau năm 1975, nhạc Trịnh Cộng Sơn không còn được hưởng cái tự do tuyệt vời mà chính Trịnh Công Sản đã góp phần làm mất. Nhạc Trịnh Công Sơn không còn là những dòng nhạc vàng huyền thoại mà đã phải chuyển hóa để biến thành nhạc nô, chuyên ca tụng cái thế giới khát máu Cộng Sản, không khác gì thi nô Tố Hữu. Đến lúc chết, tên tuổi sụp đổ, danh vọng chẳng thấy đâu ngoài những cơn say khốn khổ để quên đi cái sai lầm vĩ đại của mình và sự miệt khinh của cộng đồng quốc gia, mặc dù Trịnh Công Sơn có thể nói là một thiên tài. Loại người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản cần phải sống thực sự với cái xã hội chủ nghĩa đỏ để học một bài học đích đáng như những kẻ phản bội năm xưa. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã một lần tống khứ Ngô Bá Thành qua khỏi vỹ tuyến 17 để sống với Bác và Đảng cho biết đá biết vàng. Ngày nay, Nguyễn Hữu Liêm cũng cần dứt bỏ quốc tịch Mỹ, trở về Việt Nam làm công dân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để nếm mùi Ngô Bá Thành và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã nếm. Tất cả những chức vụ mang tính chất lãnh đạo, chỉ huy từ thượng đến hạ tầng cơ sở đều phải do đảng viên Cộng Sản nắm giữ, không phải chỉ vài ba câu nhố nhăng hạ nhục cộng đồng quốc gia, xum xoe nịnh bợ cán bộ là được Cộng Sản tin dùng. Những loại người trơ trẽn nắng chiều nào che chiều nấy chẳng có chế độ nào xử dụng cả, dù là cái chế độ có căn bản là xảo quyệt như chế độ Cộng Sản.
Ngoài những tay sai đang được mua chuộc để lũng đoạn cộng đồng quốc gia, Cộng Sản Việt Nam còn thả các vị lãnh đạo tinh thần quốc doanh ra hải ngoại cũng không ngoài mục đích thâu tóm tiền bạc và nhắn nhủ đệ tử xa rời chính trị cho phù hợp với đường lối của bạo quyền. Ngày xưa, khi tôn giáo bị bách hại, đã có hàng ngàn người sẵn sàng chết vì đạo pháp thì ngày nay, nếu bị ép buộc mà vẫn làm theo để sống còn thì có khác nào đã chà đạp lý tưởng và lương tâm tôn giáo? Nghe đâu một vị linh mục từ Việt Nam qua đã bắt phải hạ cờ vàng trước khi bước vào địa điểm hành lễ vì sợ liên lụy ở Mineasota. Trước đây, một vị thượng tọa cũng từ Việt Nam qua đã yêu cầu được đi cửa hậu để trốn tránh hàng cờ vàng do người Việt quốc gia dựng lên phía cửa trước ở Hoa Thịnh Đốn. Quý vị lãnh đạo tinh thần nếu biết lòng dân đang phẫn nộ vì bạo quyền mà vẫn cố đấm ăn xôi để được xuất ngoại thì có xứng đáng với vai trò lãnh đạo dù là lãnh đạo tôn giáo của mình hay không? Chúa hay Phật cũng đều khuyến khích con người ăn ở đạo đức nhưng không quên trí, dũng. Trí để phân biệt tốt xấu, dũng để bảo vệ điều hay, lẽ phải. Nếu không đủ trí dũng để hoán chuyển bạo quyền thì cũng không nên xuất ngoại làm gì để phải làm điều trái với lương tâm.
Một phụ nữ Việt Nam, Mimi Nguyễn, làm việc tại Viện Bảo Tàng Oakland, bất chấp có thể bị mất việc, đã dám lên tiếng phản đối Ban Giám Đốc Viện cấu kết với nhóm cựu chiến binh phản chiến Hoa Kỳ, dự định bưng bít sự thực về cuộc chiến giữa Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Sản trong một chương trình triển lãm quy mô là một tấm gương can đảm cho những ai còn thập thò, chưa dám bước hẳn vào lằn ranh chống Cộng. Mimi nguyễn đã bị sa thải sau khi cô phản đối Ban Giám Đốc Viện nhưng Mimi Nguyễn vẫn không hề nao núng, lại lên tiếng tố giác việc làm thiên lệch này trên internet. Kết quả, nhờ sự can thiệp của người Việt quốc gia khi nhận được bài viết về những băn khoăn của cô cho chính nghĩa quốc gia, Viện Bảo Tang Oakland đã phải nhượng bộ và thay đổi hoàn toàn tiêu đề cuộc triển lãm để nói về tiến trình của người Việt tỵ nạn tại hải ngoại thay vì trưng bày hình ảnh “chống Mỹ cứu nước” xảo quyệt của Cộng Sản Việt Nam. Đây cũng là một thành quả lớn lao của người Việt quốc gia hải ngoại.
Mặc dù tay sai Cộng Sản trà trộn, đánh phá các Hội Đoàn, gây chia rẽ giữa cá nhân người Việt quốc gia mỗi lúc một nhiều, nhưng đồng thời những tấm gương dũng cảm, không tham lợi lộc đến quên cội nguồn của người Việt quốc gia cũng không thiếu. Chỉ cần một câu báo động, hàng trăm, hàng ngàn hưởng ứng đã sẵn sàng để đập tan mọi âm mưu thâm độc của Cộng Sản Việt Nam. Dù cộng đồng hải ngoại có những bất đồng, những dị biệt trong đường lối đấu tranh nhưng tựu chung, khi hữu sự, tất cả vẫn chỉ là một tấm lòng cương quyết không để Cộng Sản nhuộm đỏ hải ngoại là thành trì sau cùng của người Việt quốc gia. Cuộc chiến ý thức hệ chỉ chấm dứt khi chế độ Cộng Sản giải thể hoàn toàn trên quê hương Việt Nam. Cùng chung một dòng máu, người Việt hải ngoại không quay lưng để mặc gia đình, bạn bè, thân thuộc đắm chìm dưới ách độc tài, tàn bạo của Cộng Sản Việt Nam. Người Việt hải ngoại không dung dưỡng những tay sai đang nối giáo cho giặc trong cộng đồng hải ngoại, thẳng thắn tố giác những bộ mặt ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản, không để tay sai lũng đoạn cộng đồng để phải thua thêm một ván bài gian lận nữa. Có như vậy mới thu ngắn được công cuộc đấu tranh giải thể chế độ Cộng Sản đang đến giai đoạn quyết liệt và mới mong một ngày trở về quê hương trong vinh quang.
Trung Quốc Lợi Gì
Trong Chiến Tranh Việt Nam?
Trần Gia Phụng
1.- TỔNG QUAN
Chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 30 năm, từ 1946 đến 1975, có thể chia thành ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ 1946 đến 1949: Khi Pháp đưa quân tái chiếm Việt Nam, Hồ Chí Minh, mặt trận Việt Minh (VM) và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) nhượng bộ và thỏa hiệp với Pháp, ký liên tiếp hai thỏa ước để duy trì quyền lực của VM và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD). Tuy nhiên, Pháp không ngừng tiến quân và ép VM đến đường cùng. Hồ Chí Minh liền họp trung ương đảng CSĐD trong hai ngày 18 và 19-12-1946 tại Vạn Phúc (Hà Đông) để tham khảo. Cuộc họp đi đến quyết định tấn công Pháp vào tối 19-12-1946.(1) Thế là chiến tranh không tuyên chiến bùng nổ. Từ năm 1946 đến năm 1949, VM vừa đánh, vừa đàm, vừa trốn chạy lên miền rừng núi để chờ đợi thời cơ..
Giai đoạn thứ hai từ 1950 đến 1954: Trong cuộc tranh chấp tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) thành công. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng chạy ra Đài Loan. Mao Trạch Đông công bố thành lập chính thể Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc).
Hồ Chí Minh và VM cầu viện CSTQ. Nhờ sự giúp đỡ về mọi mặt của của Trung Quốc, VM phản công từ năm 1950 và cuối cùng chiến thắng năm 1954. Chẳng những VM, mà cả Việt Nam sẽ phải trả giá cho sự cầu viện và chiến thắng nầy. Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, chia hai đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức VM cộng sản) ở miền Bắc, Quốc Gia Việt Nam (hậu thân là Việt Nam Cộng Hòa) ở miền Nam. Trước khi ký hiệp định Genève, VM đã đưa ra kế hoạch gài người ở lại miền Nam, trường kỳ mai phục để chống lại QGVN.(2)
Giai đoạn thứ ba từ 1960 đến 1975: Từ năm 1955, Bắc Việt bắt đầu kiếm cách gây hấn, đòi hỏi Nam Việt phải tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1956 theo dự kiến trong điều 7 bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Cần chú ý, bản tuyên bố cuối cùng nầy không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, kể cả phái đoàn VM tức VNDCCH.
Một bản tuyên bố không có chữ ký không thể là một văn bản pháp lý có tính cưỡng hành, mà chỉ có tính cách dự kiến tương lai mà thôi. Phái đoàn QGVN chẳng những không ký hiệp định Genève, mà còn không tham dự vào bản "Tuyên bố cuối cùng... ", nên tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của bản tuyên bố nầy và không chấp nhận tổng tuyển cử.
Lấy lý do Nam Việt không chấp nhận tổng tuyển cử, Bắc Việt quyết định tấn công Nam Việt. Đầu tiên, Ban Bí thư Trung ương đảng Lao Động (LĐ, hậu thân của đảng CSĐD) ra chỉ thị ngày 24-5-1958, tổ chức học tập chủ thuyết Mác-Lê để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Bắc Việt và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Nam Việt.
Vào cuối năm nầy, Lê Duẫn được bí mật gởi vào Nam để nghiên cứu tình hình. Khi trở ra Bắc, bản báo cáo của Lê Duẫn đã đưa đến quyết định của Uỷ ban Trung ương đảng LĐ tại hội nghị lần thứ 15 ở Hà Nội ngày 13-5-1959, theo đó đảng LĐ ra nghị quyết thống nhất đất nước (tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết đăng trên Nhân Dân ngày 14-5-1959)
Nghị quyết trên đây được lập lại trong Đại hội 3 đảng LĐ, khai diễn từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960 tại Hà Nội, mệnh danh là "Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà", đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa và "giải phóng" miền Nam bằng võ lực. (3) Thế là chiến tranh tái phát từ năm 1960 đến năm 1975. Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt ngày 30-4-1975.
Trong ba giai đoạn trên đây của cuộc chiến ba mươi năm ở Việt Nam, Trung Quốc đã giúp phía VM cộng sản từ giai đoạn thứ hai tức từ năm 1950 trở đi. Sự giúp đỡ của Trung Quốc cho phe cộng sản Việt Nam đã quá rõ ràng, không cần nhắc lại. Ở đây, chỉ xin thử bàn Trung Quốc đã hưởng lợi gì sau khi giúp phe CSVN thắng thế?
2.- TRONG GIAI ĐOẠN 1950-1954
An ninh biên giới nam Trung Quốc: Khi CHNDTH được thành lập ngày 1-10-1949, chiến tranh giữa VM và Pháp đã diễn ra được ba năm. Cuối năm 1949, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin viện trợ.(4a) Theo sự thỏa thuận giữa hai bên, chính phủ VNDCCH thừa nhận chính phủ CHNDTH ngày 15-1-1950. Ngay sau đó, CHNDTH công nhận trở lại chính phủ VNDCCH ngày 18-1-1950.
Ngày 30-1-1950, Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh cầu viện. Sau đó, Hồ Chí Minh tiếp tục qua Liên Xô ngày 3-2-1950 để xin Liên Xô viện trợ, nhưng Joseph Stalin, lãnh tụ Liên Xô, trả lời với Hồ Chí Minh rằng việc giúp đỡ VM bước đầu là công việc của CHNDTH.( 4b) Nguyên lúc đó, Liên Xô mới ra khỏi thế chiến thứ hai, vừa lo tái thiết đất nước, vừa lo tổ chức thống trị các nước Đông Âu mà Liên Xô mới chiếm được sau thế chiến thứ hai, và Liên Xô ít có quyền lợi ở Viễn đông, nên Liên Xô ít chú trọng đến Việt Nam.
Ngày 17-2-1950, Hồ Chí Minh rời Moscow, trở về Bắc Kinh. Tại đây, một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa VM và Trung Quốc được ký kết, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ (ám chỉ Quốc Dân Đảng Trung Hoa và biệt kích Pháp).(5) Hiệp ước nầy cho thấy rõ chủ đích phòng thủ biên giới của CHNDTH khi viện trợ cho VM.
Nguyên khi Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) chiếm được lục địa, thì Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐTH) chạy ra Đài Loan, cố thủ ở đây. Ngoài ra, khoảng 30,000 quân QDĐTH tràn qua Việt Nam. Số quân nầy bị quân Pháp tước khí giới và tập trung ở vùng mỏ than Đông Triều.(6)
Cần chú ý, cuối năm 1949, đảo Hài Nam (ở gần Việt Nam) vẫn còn bất ổn. Cho đến ngày 1-5-1950, CSTQ mới đánh chiếm được đảo Hải Nam. Từ đó Hải Nam chính thức thuộc Trung Quốc, trở thành đặc khu trực thuộc tỉnh Quảng Đông của CHNDTH. Vì vậy, đảng CSTQ rất lo ngại về tình hình biên giới phía nam, sợ Hoa Kỳ hay Pháp giúp tàn quân QDĐTH trở về quấy phá biên giới phía NamTrung Quốc.
Trung Quốc gởi võ khí, đạn dược qua giúp VM chống Pháp để giữ yên và tạo một vùng trái độn giữa Việt Nam và nam Trung Quốc. Số võ khí, đạn dược nầy do quân QDĐTH bỏ lại lục địa trước khi tháo chạy ra Đài Loan. Chẳng những thế, đảng CSTQ còn gởi cố vấn chính trị và quân sự sang giúp VM.
Chính tướng Trần Canh (Chen Geng), một danh tướng thân cận của Mao Trạch Đông, được gởi sang làm cố vấn cho Hồ Chí Minh, đã giúp VM chiến thắng trận đầu tiên tại Đồng Khê ngày 16-9-1950. Đồng Khê ở phía nam Cao Bằng, phía bắc Thất Khê. (Thất Khê ở phía bắc Lạng Sơn).
Cũng nhờ chiến thuật công đồn đả viện do Trần Canh cố vấn, tại vùng Cao Bằng-Lạng Sơn, VM cử đại đoàn (sư đoàn) 308, trung đoàn 209 và một tiểu đoàn độc lập, mở hai trận phục kích riêng lẻ gần Đồng Khê, bắt được hai trung tá Lepage (8-10-1950) và Charton (10-10-1950).(7) Số tù binh Pháp bị bắt trong các trận nầy lên đến 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai sĩ quan cấp trung tá.
Từ đây, VM làm chủ vùng Cao Bằng, Đồng Khê, Thất Khê, khai thông hoàn toàn khu vực biên giới giữa Trung Quốc và chiến khu Việt Bắc của VM, tạo một vùng an toàn cho VM dọc biên giới Việt Hoa, giúp việc chuyển vận hàng viện trợ của Trung Quốc cho VM được dễ dàng.
Sau trận nầy, Trung Quốc yên tâm rằng từ đây tàn quân QDĐTH không còn ẩn trốn trong vùng rừng núi biên giới giữa Trung Quốc với Việt Nam, liền rút đại tướng Trần Canh về Bắc Kinh tháng 11-1950. Lúc đó, chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên) bùng nổ ngày 25-6-1950. Tháng 6-1951, Trần Canh được lãnh đạo Trung Quốc gởi qua cầm quân ở Cao Ly.
Như thế, đảng CSTQ giúp VM và đảng CSĐD chống Pháp ở Việt Nam năm 1950 trước tiên vì nhu cầu an ninh biên giới phía nam của Trung Quốc, như trước đây nhà Thanh gởi quân qua đánh Pháp ở Bắc Kỳ để cầm chân và không cho quân Pháp tràn qua biên giới của nhà Thanh.
Ngang hàng với các cường quốc: Đảng CSTQ làm chủ lục địa và thành lập chế độ CHNDTH ngày 1-10-1949. Lúc đó, Trung Quốc chỉ là một nước chậm tiến, nông nghiệp lạc hậu, bị các cường quốc tây phương xem nhẹ, chưa được cho thay thế ghế hội viên của Trung Hoa Dân Quốc ở Liên Hiệp Quốc.
Sau khi hiệp ước đình chiến ở Cao Ly (Triều Tiên) được ký kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjon) ngày 27-7-1953, và khi chiến tranh Việt Nam càng ngày càng quyết liệt, Liên Xô đề nghị với Hoa Kỳ, Anh, Pháp họp cùng Trung Quốc vào tháng 8-1953 để giải quyết những tranh chấp còn lại ở Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Đề nghị nầy bị tam cường tây phương bác bỏ, vì cả ba nước không thừa nhận Trung Quốc là một cường quốc ngang hàng với họ.(8a)
Tháng 2-1954, Liên Xô lập lại ý kiến nầy. Trước tình hình ở Đông Dương càng ngày càng xấu về phía quân đội Liên Hiệp Pháp và càng ngày càng thắng thế về phía bộ đội VM, Hoa Kỳ, Anh, Pháp đành phải chấp nhận mời Trung Quốc đến họp để giải quyết chuyện Đông Dương.( 8b)
Dầu vậy, các nước Tây phương vẫn chưa xem trọng Trung Quốc. Trưởng phái đoàn Hòa Kỳ đầu tiên tại hội nghị Genève là ngoại trưởng John Foster Dulles. Khi gặp trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Genève là thủ tướng kiêm ngoại trưởng Châu Ân Lai, John Foster Dulles vẫn không thèm bắt tay xã giao.(9)
Như thế, từ một nước mới được thành lập, kinh tế lạc hậu, nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được ngồi ngang hàng với các cường quốc Tây phương tại hội nghị Genève. Đây là một thắng lợi ngoại giao quan trọng của Trung Quốc mà Trung Quốc không đóng góp xương máu trên chiến trường.
Trong sách Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên viết rằng trong chiến tranh chống lại miền Nam từ năm 1960, Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ (năm 1976 đổi là tổng bí thư), đã từng nói: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc."(10) Thật ra, ngay từ năm 1950, VM cũng đã đánh cho Trung Quốc.
Cố vấn hay chỉ huy: Vào thế kỷ 19, Pháp đến xâm lăng và bảo hộ Việt Nam. Nước Pháp xa Việt Nam, nằm ở miền ôn đới. Người Pháp thuộc chủng tộc da trắng, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa và văn minh khác hẳn người Việt. Người Pháp đến Việt Nam để khai thác và bóc lột, nhưng người Pháp không thích hợp với phong thổ Việt Nam, nên người Pháp ít ở lại Việt Nam.
Sau thế chiến thứ hai tức sau năm 1945, tuy Pháp muốn tái chiếm Việt Nam, nhưng người Việt Nam luôn luôn có tinh thần độc lập, sẵn sàng đứng lên chống Pháp, như trước đây đã từng chiến đấu chống Pháp. Cuộc kháng chiến có thể khó khăn nhưng trào lưu chung trên thế giới lúc đó là giải trừ thuộc địa, nên trước sau gì nước ta cũng có thể tự lực đánh đuổi được người Pháp, mà không nhất thiết phải dựa vào Trung Quốc mới có thể thành công. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử trước đây rất cam khổ, nhưng dân tộc Việt luôn luôn tự lực bảo vệ nền độc lập dân tộc mà không cần ngoại quốc viện trợ. Còn những lần các triều đại Việt Nam nhờ đến Trung Quốc, đều bị Trung Quốc xâm lăng. Ví dụ cuối đời Trần và cuối đời Lê là những bài học rõ nét nhất.
Trong sách Mặt thật, tác giả Thành Tín, tức Bùi Tín, nguyên đại tá bộ đội cộng sản, nguyên phó tổng biên tập báo Nhân Dân, đã viết: “...Nếu như hồi ấy đường lối đấu tranh đại loại như của cụ Phan [Châu Trinh] đề xướng được chấp nhận và thành hiện thực thì đất nước ta có thể khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất, có dân chủ và phát triển, có thể tránh được chiến tranh và tránh bị cỗ máy nghiền mà chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao đã đưa đến thông qua đảng cộng sản với biết bao hậu quả nặng nề mà chưa biết đến bao giờ mới khắc phục được...” (11)
Lịch sử bang giao Việt Hoa cho thấy rằng các nhà cầm quyền Trung Quốc nguy hiểm không kém gì thực dân Pháp, nếu không muốn nói là nguy hiểm hơn. Bằng chứng là vào thế kỷ 15, nhà Minh xâm lăng, khai thác và bóc lột Đại Việt tàn bạo không khác gì thực dân Pháp (xin xem Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi). Nhà Minh còn rất thâm độc, tịch thu hết sách vở, tài liệu, bia đá, nhân tài của Đại Việt đem về Trung Hoa, nghĩa là nhà Minh chủ trương tiêu diệt toàn bộ văn hóa Đại Việt.
Từ thời cổ xưa, các triều đại quân chủ Trung Quốc không ngừng bành trướng lãnh thổ. Trung Quốc đã xâm chiếm và đồng hóa tất cả các nước chung quanh Trung Quốc, như Mãn Châu, Tân Cương, Mông Cổ, Tây Tạng, Vân Nam, nhưng Trung Quốc chỉ xâm lăng Việt Nam chứ không xâm chiếm được Việt Nam vĩnh viễn.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc luôn luôn tự tôn, cho rằng Việt Nam là phiên thuộc của Trung Quốc. Tác giả Sở Cuồng Lê Dư kể lại rằng, ngay cả nhà cách mạng Tôn Dật Tiên (Trung Quốc) cũng đã nói với chính khách Nhật Bản là tử tước Khuyển Dưỡng Nghị, tức Inukai Ki, rằng: “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ bị Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có tương lai.” (12) Dầu Tôn Dật Tiên phát biểu như thế, Việt Nam là nước duy nhất nằm sát Trung Quốc và kháng cự lại được nền đô hộ của Trung Quốc.
Người Trung Quốc thuộc chủng tộc da vàng, có nền văn hóa và văn minh gần giống người Việt. Vì vậy, khác với người Pháp, người Trung Quốc rất dễ hòa lẫn với người Việt, nghĩa là người Trung Quốc đến Việt Nam, và có thể ở lại sinh sống tại Việt Nam.
Dưới thời quân chủ, khoảng từ 2 đến 4 năm, do yếu thế, triều đình Việt cử sứ thần sang Trung Hoa triều cống một lần, nhưng vua nước Việt, tức nguyên thủ quốc gia, chưa bao giờ sang Bắc Kinh bệ kiến các hoàng đế Trung Hoa, trừ lần Lê Chiêu Thống lưu vong năm 1789, và Phạm Công Trị giả vua Quang Trung sang Thanh năm 1790.
Trong khi đó, từ năm 1950 đến năm 1954, Hồ Chí Minh, nguyên thủ nhà nước VNDCCH, bốn lần sang Bắc Kinh hội kiến các lãnh tụ CSTH để xin cầu viện. Đó là các lần: 1) Đến Bắc Kinh 30-1-1950 rồi qua Moscow. 2) Đến Nam Ninh ngày 5-2-1951. 3) Đến Bắc Kinh cuối tháng 9-1952, rồi đi Moscow. 4) Đến Bắc Kinh cuối tháng 3-1954, rồi đi Moscow.
Ngang nhiên hơn nữa, năm 1954, Châu Ân Lai gọi Hồ Chí Minh sang Liễu Châu nói là hội họp và thảo luận, nhưng thực chất là ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải ký hiệp định Genève chia hai nước Việt Nam. Thế là Hồ Chí Minh đành nghe theo.(13) Chưa có thời đại nào mà chính quyền Trung Hoa chi phối mạnh mẽ, gần như chỉ huy nhà nước Việt Nam như CHNDTH đối với VNDCCH.
2.- TRONG GIAI ĐOẠN 1960-1975
Trung Quốc xâm lăng Việt Nam: Sau khi nhờ CSTQ để chống Pháp, nhất là chuẩn bị cầu viện để tiến đánh miền Nam, đương nhiên VNDCCH phải biết điều với Trung Quốc. Sự biết điều nầy thấy rõ qua công hàm ngày 14-9-1958 do Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt ký, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Phạm Văn Đồng ký công hàm trên phải được sự chuẩn thuận của Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng Lao Động.
Trong khi giúp đỡ Bắc Việt để tiến đánh Nam Việt, Trung Quốc theo dõi diễn tiến tình hình chiến tranh Việt Nam, sẵn sàng chuẩn bị ra tay để thủ lợi. Ngày 27-1-1973, tại Paris bốn bên lâm chiến ở Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam) ký kết “Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”, theo đó Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn ra khỏi Việt Nam.
Đây là thời cơ thuận tiện để Trung Quốc ra tay, vì Hoa Kỳ rút đi, VNCH bận rộn một mình chống đỡ những cuộc tấn công của VNDCCH và MTDTGPMN. Trung Quốc liền đưa hạm đội hùng hậu đánh chiếm hải đảo Hoàng Sa của VNCH. Biết rằng khó thắng, nhưng Hải quân VNCH do Ngụy Văn Thà chỉ huy, cương quyết bảo vệ quê hương, tiếp nối truyền thống anh dũng của tổ tiên chúng ta.
Ngụy Văn Thà và đồng đội hy sinh. Trung Quốc một lần nữa xâm lăng Việt Nam. Bắc Việt cộng sản im lặng, không lên tiếng. Đây là khởi đầu của thời kỳ Trung Quốc tiến xuống các hải đảo phía nam.
Trung Quốc bắt tay với Hoa Kỳ và vào Liên Hiệp Quốc: Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Hoa Kỳ vào Việt Nam nhắm mục đích giúp Nam Việt chận đứng sự bành trướng của khối cộng sản. Sau một thời gian có mặt tại Việt Nam, từ thập niên 60, Hoa Kỳ nhận ra hai điều:
Thứ nhất, các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ.
Thứ hai, nếu Hoa Kỳ càng giúp VNCH (Nam Việt) chống lại VNDCCH (Bắc Việt), thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản thứ ba. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau.
Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng "Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ."(14 a)
Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng "hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô."(14b)
Chính vì vậy, Hoa Kỳ đã thay đổi chiến lược toàn cầu, bắt đầu rút lui khỏi Việt Nam và kiếm cách bắt tay với Trung Quốc. Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, trong một cuộc phỏng vấn, đã cho biết kết quả cuộc chuyển hướng ngoại giao của Hoa Kỳ: "Làm cho người Trung Quốc tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam." (14b)
Sự giao thiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu bằng cuộc đấu bóng bàn giao hữu giữa hai đội bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày 14-4-1971 dưới sự tiếp đón và chứng kiến của thủ tướng Châu Ân Lai tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh. Sau đó, ngày 9-7-1971, Henri Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Hoa Kỳ, có mặt ở Bắc Kinh và được Châu Ân Lai tiếp kiến.
Ngày 25-10-1971, Đại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận CHNDTH được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với CHNDTH. Cần để ý thêm là Trung Quốc là hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, có quyền bỏ phiếu phủ quyết những vần đề quan trọng đưa ra trước Liên Hiệp Quốc.
Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà Nixon cho rằng đây là “một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới.”(15) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến "Thông cáo chung Thượng Hải" ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.
Như thế, rõ ràng Trung Quốc lợi dụng Bắc và Nam Việt Nam đang đánh nhau trong giai đoạn từ 1960 đến 1975 để đánh chiến hải đảo Hoàng Sa, mở đầu cuộc bành trướng xuống phương nam. Đồng thời cũng nhờ chiến tranh Việt Nam lần nầy, Trung Quốc bắt tay được với Hoa Kỳ, được vào Liên Hiệp Quốc, được giữ ghế thường trực tại Hội đồng bảo an. Từ đó, quan trọng nhất là Trung Quốc thoát ra khỏi tình trạng bị cô lập, mở mang giao dịch với các nước trên thế giới và càng ngày càng thăng tiến trong sinh hoạt chính trị quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong chiến tranh ba mươi năm vừa qua trên đất nước Việt Nam (1946-1975), có thể nói Trung Quốc đã hưởng lợi tối đa nhờ Trung Quốc đã viện trợ võ khí, đạn dược, quân trang quân dụng và làm cố vấn về chính trị lẫn quân sự cho VNDCCH từ 1950 trở đi.
Thành lập năm 1949, tuy vẫn còn là một nước lạc hậu về kinh tế, nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được xếp ngang hàng với các cường quốc Tây phương năm 1954, bắt tay với Hoa Kỳ và vào Liên Hiệp Quốc năm 1971, giải tỏa thế cô lập, và thăng tiến nhanh chóng trên đường giao thương quốc tế.
Riêng đối với Việt Nam, cả ngàn năm qua, các triều đại Trung Quốc phải đem binh hùng tướng mạnh để chinh phục nước Việt, nhưng đều thất bại. Người Việt luôn luôn bảo vệ chủ quyền đất nước, gìn giữ độc lập dân tộc. Từ năm 1950, khi cầu viện Trung Quốc để chống Pháp, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD đã tự hạ mình làm phiên thuộc, thần phục Trung Quốc, hoàn toàn vâng lệnh Trung Quốc, từ những phong trào chính trị như rèn cán chỉnh quân (chỉnh huấn), cải cách ruộng đất (thổ cải), đến những chiến dịch hành quân, kể cả chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.(16) Chưa bao giờ nhà cầm quyền Trung Quốc kiểm soát Việt Nam chặt chẽ như vậy.
Cũng cả hàng ngàn năm qua, biết bao nhiêu lần Trung Quốc muốn chinh phục Việt Nam để tìm đường xuống Đông Nam Á, nhưng đều bị đẩy lui. Cho đến thế kỷ 20, vì thần phục Trung Quốc, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động đã ký công hàm tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc và triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, mở đường cho Trung Quốc xuống phía nam. Sau đó, năm 1974 Bắc Việt và đảng Lao Động đồng lõa làm ngơ để Trung Quốc thôn tính hải đảo Hoàng Sa, cam tâm nhìn người nước ngoài xâu xé một phần lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam kính yêu.
Cả ngàn năm qua, các vua chúa Trung Hoa không chiếm được một tấc đất của Việt Nam, không làm sụp đổ ải Nam Quan. Chỉ đến thế kỷ 20, CSTQ chiếm đất, chiếm đảo của chúng ta, không phải do tài ba của CSTQ, mà do Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo CSVN, rước voi về giày mộ tổ, đúng theo kế hoạch thâm độc của cường quyền phương Bắc là “dĩ Việt chế Việt” (dùng người Việt chế ngự người Việt).
Như thế, trong chiến tranh ba mươi năm vừa qua trên đất nước Việt Nam, Hồ Chí Minh và đảng CSĐD nhờ CSTQ để đánh Pháp, không khác gì nhờ một kẻ cướp đuổi một tên trộm. Tên trộm bỏ chạy thì kẻ cướp vào nhà. Đây không phải chỉ là những sai lầm chiến lược của Hồ Chí Minh và đảng Lao Động Việt Nam, mà đây chính là tội lỗi phản quốc lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim. Những tội lỗi nầy hiện đưa đến những hậu quả tai hại mà người Việt Nam ngày nay đang phải đối mặt.